(Đã dịch) Tàn Bào - Chương 82 : Kỳ Môn Độn Giáp
Tả Đăng Phong nghe tiếng cười ha ha, hầu hết phụ nữ Nam Kinh đều bị quân quỷ tàn sát, số còn lại phần lớn là những người may mắn tránh được tai họa ngay từ đầu. Bởi vậy, Đồng Giáp tìm được một người phụ nữ cũng đã là không tệ.
Rất nhanh, Tả Đăng Phong lướt đi hơn mười dặm, bỏ lại Đồng Giáp phía sau. Anh tìm một quán cơm đơn sơ, ăn uống qua loa rồi hỏi đường đến Thư viện Nam Kinh. Sau đó, anh mang theo con cá tươi mới mua ra ngoài tìm kiếm.
Thư viện tọa lạc trên một con đường nhỏ ở phía bắc thành phố, chiếm diện tích không hề nhỏ. Đó là một công trình kiến trúc cũ kỹ từ thời Thanh, với hai mươi mấy gian phòng rộng lớn. Tường viện bao quanh đã cũ nát, cánh cổng sắt khóa chặt, nhân viên đều đã bỏ chạy từ lâu nên bên trong tối đen như mực.
Thấy thư viện không bị thiêu rụi, Tả Đăng Phong thầm may mắn. May mà quân quỷ không hứng thú với sách vở, nếu không chắc chắn không thể bảo toàn nguyên vẹn như thế này.
Thành Nam Kinh vốn chẳng còn lại bao nhiêu người sống sót. Khi trời tối, trên đường càng vắng vẻ. Tả Đăng Phong liền nhảy thẳng vào sân. Vào đến nơi, anh mới phát hiện thư viện và kho lưu trữ tài liệu là một. Mỗi gian phòng đều có treo biển trên cửa, ghi rõ loại sách vở được lưu giữ bên trong. Đa số là sách khoa học hiện đại. Tả Đăng Phong không có hứng thú gì với khoa học. Theo anh, khoa học luôn phát triển, khoa học hiện tại qua trăm tám mươi năm cũng sẽ bị khoa học mới thay thế. Nói trắng ra là nó có tính không ổn định, không đáng để nghiên cứu. Thứ duy nhất đáng giá nghiên cứu chính là lịch sử. Lịch sử là những chuyện đã xảy ra, những chuyện đã xảy ra vĩnh viễn không thay đổi, có thể thông qua nghiên cứu những sự việc ấy để tìm ra những quy luật và bản chất vốn có.
Tuy nhiên, anh đến đây không phải để tìm hiểu gì mà là để tra cứu tài liệu lịch sử. Do đó, Tả Đăng Phong nhanh chóng tìm được căn phòng chứa lịch sử cổ đại, bẻ khóa cánh cửa đóng chặt rồi đẩy vào.
Bên trong phòng toàn là giá sách. So với thư viện tại huyện Văn Đăng, Thư viện Nam Kinh lớn hơn nhiều, quy mô gấp mười mấy lần. Sách báo được phân loại theo niên đại cực kỳ chi tiết, kho tàng cũng phong phú.
Vừa vào nhà, Mười Ba liền giật lấy con cá trên tay Tả Đăng Phong rồi chạy biến. Tả Đăng Phong dựa theo hướng dẫn trên giá sách, tìm được những cuốn sách ghi chép về lịch sử Thương Chu. Những sách này đều do hậu thế biên soạn, vì thời kỳ Thương Chu còn chưa có sách v��� làm bằng giấy. Hiện tại, kho sách lịch sử chính quy nhất ở thư viện chính là "Nhị Thập Tứ Sử". Đây là bộ sử do các triều đại hoàng gia chỉnh lý, biên soạn, gồm "Sử Ký", "Hán Thư" cùng hai mươi hai bộ sử khác, ghi chép nội dung tương đối chi tiết. Thế nhưng, khi chuyển toàn bộ "Nhị Thập Tứ Sử" ra khỏi khung, Tả Đăng Phong cau mày. Một chồng sách dày đặc, nếu chất chồng lên nhau sẽ cao hơn cả anh.
Cũng may, nội dung anh cần tìm đọc có mục đích rõ ràng, đó là khu vực sinh sống của Tám Đại Chư Hầu hoặc Tám Đại Bộ Lạc thời Tây Chu. Nhờ vậy, phạm vi tìm kiếm được thu hẹp đáng kể. Sau khi tra cứu và đối chiếu kỹ lưỡng, Tả Đăng Phong đã xác định được khu vực cư trú của Tám Chư Hầu năm xưa. Không chỉ vậy, Tả Đăng Phong còn phát hiện một hiện tượng rất kỳ lạ: Tám Chư Hầu đó sinh sống theo từng cặp liền kề nhau.
"Dung" và "Lô" liền kề nhau, nằm ở vùng Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay. Khu vực của họ rừng rậm vô cùng rậm rạp. Thần Nông Giá ở Hồ Bắc và Tương Tây ở Hồ Nam đều thuộc khu vực này.
"Mâu" và "Bộc" liền kề nhau, nằm ở vùng phía bắc Vân Nam và phía nam Tứ Xuyên ngày nay. Khu vực này là nơi hợp lưu của ba con sông lớn: Nộ Giang, Kim Sa Giang, Lan Thương Giang. Lượng nước ở đây không hề kém cạnh Hoàng Hà hay Trường Giang.
"Thục" và "Ẩn" liền kề nhau, nằm ở vùng phía bắc Tứ Xuyên và Thiểm Tây ngày nay. Địa thế nơi đây tương đối bằng phẳng. Tây An xưa kia còn gọi là Trường An, là nơi có số lần vương triều phong kiến Trung Quốc đặt kinh đô nhiều nhất trong lịch sử.
"Khương" và "Bành" liền kề nhau, nằm ở vùng Cam Túc và Tân Cương hiện tại. Khu vực này trước kia là thảo nguyên và hồ nước bao la, nhưng giờ đây đã biến thành những sa mạc rộng lớn. Hồ Lop Nur nằm trong phạm vi của "Khương" và "Bành" năm xưa.
Tám chư hầu này chia thành bốn khu vực, liền kề nhau. Dựa theo lý thuyết cân bằng âm dương, những chư hầu liền kề này hẳn là có sự cân bằng, chế ước lẫn nhau giữa các sinh vật. Nói cách khác, địa khí ở những khu vực này không ổn định. Hiện tại, điều duy nhất Tả Đăng Phong biết là nước "Dung" năm xưa có rất nhiều Hầu Kim Chúc (khỉ vàng). Khỉ thuộc dương, nên Tả Đăng Phong suy đoán, nước "Lô" liền kề với nước "Dung" hẳn là có một con Kim Kê (gà vàng) thuộc âm. Vòng cổ của con khỉ khắc chữ "Cửu Dương Kim Dung", vậy nên vòng cổ của con gà nên có chữ "Thập Âm Kim Lô".
Tả Đăng Phong đọc sách trong đêm tối mà không bị ảnh hưởng. Anh dùng nửa đêm để đọc tài liệu lịch sử và so sánh vị trí địa lý. Đến gần sáng, anh vẫn ngồi trên ghế suy tư. Dù không tinh thông về âm dương, nhưng anh hiểu đạo lý tương khắc và tương sinh đơn giản của âm dương. Tả Đăng Phong cho rằng những sinh vật đó năm xưa xuất hiện rất có thể là do sự mất cân bằng âm dương trên một khu vực rộng lớn. Mười hai sinh vật này sau khi ra đời đã ảnh hưởng đến địa khí của một vùng rộng lớn. Hai sinh vật có Ngũ Hành giống nhau nhưng âm dương khác nhau lại thành một đôi, ảnh hưởng và cân bằng địa khí trong phạm vi nhỏ. Tức là, mười hai địa chi là một chỉnh thể lớn, nhưng chúng lại có thể chia nhỏ thành năm tổ hợp nhỏ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trong đó, Thổ sinh vạn vật, nên Thổ là ch���nh thể do bốn sinh vật tạo thành.
Dựa trên manh mối có được, Tả Đăng Phong tiếp tục suy nghĩ. Hiện tại, dù chưa thể xác định cụ thể các sinh vật khác phân bố ở khu vực nào, nhưng anh đã có một suy nghĩ bất ngờ: rất có thể một trong hai sinh vật của hai nước chư hầu "Khương" và "Bành" đã chết hoặc bỏ trốn. Sở dĩ anh đưa ra phán đoán này là vì Lop Nur, nơi "Khương" và "Bành" từng sinh sống, trước kia là những thảo nguyên và hồ nước rộng lớn, nhưng hiện tại đã trở thành sa mạc. Điều này cho thấy sự cân bằng âm dương ở đó đã bị phá vỡ, địa khí đã xuất hiện sự thiên lệch và biến đổi.
Do đó, muốn phán đoán những sinh vật kia có còn ở lại khu vực ban đầu hay không thì rất đơn giản: đó là so sánh môi trường địa lý thời kỳ Thương Chu với môi trường địa lý hiện tại. Nếu hiện tại không có biến đổi lớn so với trước kia, điều đó có nghĩa là những sinh vật đó không rời đi hoặc không chết. Nếu hiện tại có biến đổi rất lớn so với trước kia, điều đó cho thấy sinh vật ở đó đã chết hoặc rời đi.
Nghĩ đến đ��y, Tả Đăng Phong rời khỏi căn phòng chứa sách lịch sử, tìm đến khu vực lưu giữ sách địa lý. Anh đọc một lượng lớn tài liệu địa lý cổ kim, cuối cùng đưa ra một kết quả khá hài lòng: trừ khu vực Lop Nur rộng lớn ở Cam Túc và Tân Cương của "Khương" và "Bành" đã xảy ra biến đổi môi trường lớn, những nơi khác so với ba ngàn năm trước không có nhiều thay đổi. Điều này có nghĩa là những sinh vật kia đều không chạy đi xa.
Bởi vì thời kỳ Thương Chu cách nay gần ba ngàn năm, rất nhiều ghi chép lịch sử đã không còn đầy đủ. Hậu duệ của Tám Bộ Lạc năm đó liệu có còn tồn tại hay không, đến nay không thể kiểm chứng được. Tuy nhiên, theo ghi chép trong "Sử Ký" và "Lý Chí", chư hầu "Mâu" hẳn là người Miêu ngày nay. Ngoài ra, vào thời Hàm Phong nhà Thanh, từng có người gặp một số người ăn lông ở lỗ bí ẩn ở phía Đông Nam Lop Nur, toàn bộ người trong tộc họ này đều mang họ Bành. Từ đó có thể thấy, nước "Bành" cũng có hậu duệ tồn tại. Trừ hai nơi này, những nơi khác không có bất kỳ ghi chép nào.
Gần trưa, Tả Đăng Phong đi vệ sinh, sau đó trở lại phòng, ngồi cạnh Mười Ba cùng ra phơi nắng. Giờ khắc này, tâm trạng Tả Đăng Phong không mấy sáng sủa. Đây không phải vì anh thức trắng một đêm, mà là sau khi đọc "Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành", anh tình cờ phát hiện một tình huống ngoài sức tưởng tượng.
"Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành" là bộ tài liệu lịch sử hoàng gia do hoàng đế Ung Chính và các sử quan dưới quyền biên soạn, vô cùng chính quy và ghi chép tương đối chân thực. Tả Đăng Phong ban đầu muốn thông qua cuốn sách này để so sánh vị trí địa lý, nhưng anh lại từ đây phát hiện một tình huống bất ngờ. Đó là, trong sách ghi chép Khương Tử Nha từng tu tập "Thiên Triện Văn Sách". Tương truyền "Thiên Triện Văn Sách" là do tiên nhân ban tặng cho Hoàng Đế trong trận chiến với Xi Vưu, sau đó được Hoàng Đế truyền lại cho đời sau. Cuốn sách này ghi chép "Binh pháp Mười Ba Chương", "Luyện Khí Hai Thiên", "Cô Hư Pháp Mười Hai Chương", "Kỳ Môn Độn Giáp Một Ngàn Lẻ Tám Mươi Cục". Bao gồm các tinh túy về hành quân chiến tranh, tinh luyện kim loại binh khí, cơ quan trận pháp, và dự đoán kỳ môn.
Sau này, Khương Tử Nha chỉ truyền lại "Kỳ Môn Độn Giáp Một Ngàn Lẻ Tám Mươi Cục" cho đời sau. Trương Lương sau đó lại lược bỏ một phần nội dung trên cơ sở này, tạo ra Kỳ Môn Độn Giáp mà đời sau biết đến.
Tả Đăng Phong không mấy bận tâm đến nội dung hành quân chiến tranh và tinh luyện kim loại binh khí trong "Thiên Triện Văn Sách", vì chúng không liên quan đến anh. Điều anh sợ nhất hiện tại chính là cơ quan trận pháp và kỳ môn dự đoán. Khương Tử Nha rất có khả năng đã cố định những sinh vật kia trong một phạm vi nhất định, và biện pháp mà ông dùng chắc chắn không phải là dùng dây thừng buộc. Khả năng ông dùng cơ quan trận pháp để vây khốn chúng là rất lớn, nếu không những sinh vật tinh nghịch kia chắc chắn sẽ chạy loạn.
Cứ như vậy, những khó khăn Tả Đăng Phong gặp phải tăng lên. Anh không chỉ phải tìm những sinh vật đó, mà còn phải đối mặt với những cơ quan mà Khương Tử Nha có thể đã để lại. Điều khiến anh đau đầu nhất vẫn là "Kỳ Môn Độn Giáp Một Ngàn Lẻ Tám Mươi Cục". Kỳ Môn Độn Giáp là thuật dùng để bói toán, dự đoán. Kỳ Môn Độn Giáp hiện tại đã không còn đầy đủ, các thầy bói căn bản là không chính xác. Tuy nhiên, Khương Tử Nha dùng là bộ Kỳ Môn Độn Giáp hoàn chỉnh. Vạn nhất ông đã đoán trước được đời sau có người dòm ngó những sinh vật kia, thì ông nhất định sẽ sớm nghĩ ra biện pháp ứng phó. Nếu cứ thế mà xông vào một cách liều lĩnh, e rằng sẽ nhận lấy cái ch��t.
Nghĩ đến những khó khăn có thể gặp phải sau này, Tả Đăng Phong không hề nản lòng. Ngược lại, anh còn có chút cao hứng. Tâm trạng anh lúc này là điển hình của câu "tâm lo than đá, tiện nguyện trời giá rét", nghĩa là anh không sợ khó khăn, anh ước gì truyền thuyết là thật. Chỉ cần truyền thuyết là thật, thì truyền thuyết về sáu sinh vật âm tính bất tử cũng có thể là thật. Khó khăn càng lớn, thì khả năng chúng cứu sống Vũ Tâm Ngữ cũng càng lớn.
Sau một thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, Tả Đăng Phong cùng Mười Ba rời khỏi Thư viện. Rời đi rồi, Tả Đăng Phong quay đầu nhìn lại. Thế gian đều cho rằng vàng bạc châu báu là thứ tốt, kỳ thực thứ trân quý nhất chính là những tài liệu lịch sử và sách vở này. Những thứ này nếu bị hủy hoại, sau này sẽ không thể tìm lại được.
Rời khỏi Thư viện, Tả Đăng Phong đi về hướng đông bắc. Anh muốn đến Mao Sơn phái để gặp Kim Châm, một phần để báo cáo tình hình, một phần là để xem có thể thỉnh giáo Kim Châm một số vấn đề về trận pháp hay không.
Nam Kinh cách Trấn Giang rất gần. Khi trời chạng vạng tối, Tả Đăng Phong đã đến Mao Sơn, lên núi gõ cửa xin bái kiến. Sở dĩ anh chọn đến vào buổi tối là vì hiện tại anh đã là kẻ thù chung của mọi thế lực, không thể làm liên lụy đến phái Mao Sơn.
"Vô Lượng Thiên Tôn, thí chủ có việc gì?" Người mở cửa là một tiểu đạo đồng. Người trong Đạo Môn không gọi người ngoài là "thí chủ", chỉ có hòa thượng mới dùng cách xưng hô đó.
"Xin bẩm báo chưởng giáo quý phái, nói Tàn Bào đến ghé thăm." Tả Đăng Phong nhíu mày nói. Anh không muốn tùy tiện tiết lộ tên mình. Vì danh hiệu Tàn Bào đã lan truyền, Tả Đăng Phong liền chấp nhận danh xưng mà người ngoài gán cho mình.
"Xin đợi một chút." Tiểu đạo đồng nghe vậy liền đóng cửa lớn lại.
Không lâu sau, Tả Đăng Phong nghe thấy tiếng bước chân. Tiếng bước chân rất nhẹ nhàng, không cần hỏi cũng biết là Kim Châm ra đón.
"Ha ha ha ha." Kim Châm mặc đạo bào âm dương vàng óng nghênh ra ngoài cửa, cười lớn vươn tay phải ra với Tả Đăng Phong. Tả Đăng Phong thấy anh ta cũng rất vui mừng, đưa tay ra đối quyền.
"Khách quý lâm môn, bát m��n đều mở." Kim Châm quay người vẫy tay ra hiệu với những người đi theo. Cổng lớn của Mao Sơn phái có bốn cánh. Bình thường chỉ mở hai cánh, đón khách hành hương thì mở bốn cánh, đón bạn bè giang hồ thì mở sáu cánh, chỉ khi đón chưởng giáo các phái mới mở đủ tám cánh.
"Đại ca, không cần như vậy." Tả Đăng Phong dù không biết hàm nghĩa trong đó, nhưng cũng đoán được Kim Châm đang dùng quy cách cao nhất để đón tiếp mình.
"Đừng dài dòng, đi mau." Kim Châm kéo tay áo Tả Đăng Phong đi vào cổng lớn.
Độc quyền truyện của truyen.free, nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức.