(Đã dịch) Chương 872 : Hà Bắc đàm phán (hạ)
Vài ngày sau, Ôn Hữu đã đến huyện Vĩnh Niên thuộc Minh Châu. Cùng lúc đó, Vương Hựu cũng dẫn theo mười mấy tùy tùng đến huyện Vĩnh Niên. Hai bên muốn thay mặt chúa công của mình, cùng nhau bàn bạc phương pháp chung sống giữa hai nhà ở Hà Bắc.
Cuộc thương thảo được tổ chức tại phủ Thứ sử Minh Châu. Sáng sớm, cả hai bên đều có mặt đúng giờ tại phủ Thứ sử, hàn huyên vài câu ở cửa rồi cùng nhau tiến vào.
Hai bên ngồi xuống ở đại sảnh. Ôn Hữu cười nói: “Ta tin rằng quý phương cũng như chúng ta, đều mong muốn cục diện Hà Bắc có thể bình ổn trở lại, để dân chúng được nghỉ ngơi dưỡng sức. Bởi vậy, chúng ta mới cùng ngồi tại đây, bàn bạc về các thủ tục tiếp theo ở Hà Bắc.”
Ôn Hữu đã nói rõ trọng điểm, xác định tính chất của cuộc đàm phán hôm nay là nhằm mục đích cùng chung sống hòa bình về sau.
Vương Hựu gật đầu: “Chúng ta đều mang theo thành ý đến đây, mong rằng hai bên có thể thẳng thắn đối đãi. Mâu thuẫn hay xung đột không đáng sợ, hãy để chúng ta tìm cách giải quyết, chỉ cần có thành ý, ta tin rằng luôn có phương pháp.”
“Vương công nói rất đúng, chúng ta cũng mong muốn thẳng thắn đối đãi. Lần này chúa công của ta đề xuất đàm phán, chủ yếu có ba điểm: thứ nhất, hai bên xác định biên giới; thứ hai, hai bên thiết lập quy tắc chung sống; thứ ba, ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau. Sau đó, không biết quý phương còn có điều gì bổ sung không?”
“Như việc giao thương, đi lại của nhân viên, qua lại của thuyền bè... đều nằm trong điểm thứ hai sao?”
“Đúng vậy!”
Ôn Hữu lấy ra một tấm bản đồ Hà Bắc rất lớn, treo lên giá gỗ. Vương Hựu lập tức bị thu hút, bước tới xem xét kỹ lưỡng.
Trên bản đồ vẽ các châu ở Hà Bắc, cùng với những dòng sông quan trọng. Trong đó, một đường kẻ đỏ đậm rõ ràng là ranh giới thế lực giữa hai nhà Tấn và Ngụy. Tuy nhiên, Vương Hựu vẫn cảm thấy nó có chút khác biệt so với ranh giới thực tế.
Vương Hựu hỏi: “Sợi chỉ đỏ này có ý nghĩa gì?”
Ôn Hữu cười nói: “Đây là đường ranh giới mà chúng ta chủ trương.”
“Đoạn phía tây thì không có vấn đề, đó là sông Phủ Dương nằm giữa Hình Châu và Tương Châu. Quan đạo phía Tương Châu là trấn Tương Ấp, phía Hình Châu là trấn Phủ Dương, hoàn toàn chính xác. Nhưng đoạn trung tâm, phía bắc Ngụy Châu, liệu có phải dọc theo kênh Vĩnh Tế không?”
“Nói đúng hơn, đoạn trung tâm chúng ta chủ trương lấy kênh Vĩnh Tế làm ranh giới.”
“Điều này e rằng không ổn!”
Vương Hựu kinh ngạc thốt lên: “Kênh Vĩnh Tế chạy dọc xuyên qua Bối Châu, chia B���i Châu thành hai. Châu trị huyện Thanh Hà nằm ở bờ tây kênh Vĩnh Tế, nếu lấy kênh Vĩnh Tế làm ranh giới, chẳng phải cắt mất một nửa Bối Châu sao? Điều này làm sao có thể!”
“Vương công hãy tiếp tục xem đoạn phía đông, sau đó chúng ta sẽ cùng nhau bàn bạc.”
Đoạn phía đông thì càng không thể tin được. Khi đường ranh đỏ đến cửa nhánh sông Phù Thủy mở rộng ở Thương Châu, nó liền chạy dọc theo sông Phù Thủy về phía đông, vốn kéo dài đến bờ biển. Nói cách khác, nó sẽ chia Thương Châu thành hai.
Vương Hựu không nói nên lời, đây nào phải là biểu hiện của thành ý, rõ ràng là sự bá đạo tột cùng.
Ôn Hữu nhận thấy vẻ mặt bất mãn của hắn, điều này nằm trong dự liệu của mình. Hắn cười nói: “Vương công không nhận ra sao? Hoài Châu lại nằm trong địa phận của quý vị đấy.”
“Hoài Châu?”
Vương Hựu cũng ngẩn người. Ánh mắt hắn vội vàng dịch chuyển xuống phía tây nam bản đồ, nơi đó cũng có đường ranh giới màu đỏ chạy dọc theo núi Thái Hành. Nói cách khác, Hoài Châu đã được sắp xếp cho Ngụy quốc.
Vương Hựu bỗng nhiên ý thức được, e rằng đây mới là mấu chốt của cuộc đàm phán lần này của Quách Tống. Quách Tống muốn dùng Hoài Châu để đổi lấy một nửa đất đai ở Bối Châu và Thương Châu.
“Ta đã hiểu. Phương án này có thể bàn bạc, nhưng liệu có thể cho chúng ta biết, ý đồ của Tấn vương điện hạ khi trao đổi như vậy là gì không?”
Ôn Hữu trầm ngâm một lát rồi nói: “Tuy rằng Tấn vương điện hạ chưa ủy quyền cho ta nói về chuyện này, nhưng ta có thể tiết lộ cho quý vị biết, việc lấy kênh Vĩnh Tế làm ranh giới chủ yếu là vì chúng ta muốn lợi dụng tuyến đường thủy của kênh Vĩnh Tế. Việc vận chuyển hàng hóa giữa U Châu và Trường An chủ yếu vẫn phải thông qua đường thủy. Còn về Thương Châu, đó là để thu được ruộng muối.”
“Nhưng phía Bình Châu không phải cũng có ruộng muối sao!”
“Ruộng muối ở Bình Châu đủ để cung ứng cho các châu ở Hà Bắc. Nhưng chúng ta còn có Hà Đông, Quan Trung, Lũng Hữu, Hà Tây – những vùng lãnh thổ rộng lớn này. Ruộng muối Bình Châu hiển nhiên không đủ, cho nên chúng ta nhất định phải có thêm ruộng muối ở Thương Châu.”
Vương Hựu cũng tin rằng đây là nguyên nhân thực sự. Thương Châu dân số không nhiều, tuy đất đai rộng lớn, nhưng có lẽ Quách Tống ít quan tâm nhất chính là đất đai. Đối với Quách Tống mà nói, sức hấp dẫn lớn nhất của Thương Châu chính là ruộng muối.
“Việc trao đổi này cá nhân ta cảm thấy khả thi, nhưng ta nhất định phải xin chỉ thị Ngụy vương. Hiện tại ngài ấy đang ở Tương Châu, ta sẽ phái người đưa tin cho ngài ấy, chậm nhất là ngày mốt sẽ có kết quả.”
Ôn Hữu khẽ cười nói: “Vậy thì tốt, ta mong chờ tin tốt từ Vương công.”
***
Lúc này, Điền Duyệt đang ở huyện An Dương thuộc Tương Châu. Nơi này cách huyện Vĩnh Niên thuộc Minh Châu rất gần, cưỡi ngựa nhanh chỉ mất một ngày đường.
Mấy kỵ binh mang theo thư của Vương Hựu một đường phi nước đại. Chỉ sau hai canh giờ đã đến huyện An Dương. Mặc dù cửa thành đã đóng, nhưng binh sĩ đưa tin có kim bài thông hành của Vương Hựu nên đã thuận lợi vào thành.
Lúc này, Điền Duyệt đã đi ngủ. Thân vệ đánh thức hắn, nghe nói là quân sư gửi tin khẩn, cơn buồn ngủ của hắn biến mất. Hắn vội vàng đi tới thư phòng. Rất nhanh, binh sĩ báo tin vội vã bước vào, quỳ xuống hành lễ với vẻ lo lắng, nói: “Phụng lệnh quân sư, khẩn cấp đưa tin cho Vương gia.”
Nói đoạn, hắn lấy ra một phong thư dày cộm, dâng lên cho Điền Duyệt.
Điền Duyệt lấy thư ra. Bên trong là một tấm bản đồ và một phong thư. Hắn đọc lướt qua lá thư, lúc này mới biết tấm bản đồ chính là đường ranh giới mà Quách Tống đã vạch ra.
Điền Duyệt mở bản đồ ra xem xét kỹ lưỡng. Đây chính là phiên bản thu nhỏ tấm bản đồ của Ôn Hữu, đường ranh giới được chia thành đoạn Tây Nam, đoạn phía tây, đoạn trung tâm và đoạn phía đông. Quân Tấn đã chia Hoài Châu về phía mình, nhưng lại cắt mất một nửa Bối Châu và Thương Châu.
Trong thư, Vương Hựu khuyên Điền Duyệt nên chấp thuận, bởi lẽ hai mặt thọ địch, áp lực quá lớn. Nếu chỉ giằng co ở phương nam hoặc phương bắc, bọn họ ít nhất còn có ba phần cơ hội thắng, nhưng nếu hai mặt thọ địch, ngay cả một phần cơ hội thắng cũng không có.
Thực ra Điền Duyệt cũng không quá để tâm đến Thương Châu. Thương Châu hoang vắng, chia cho Quách Tống một nửa cũng không quan trọng. Điều khiến Điền Duyệt có chút không nỡ là Bối Châu. Bối Châu dân số đông đúc, từ trước đến nay là một đại châu về thuế phú. Phần bị cắt đi lại là khu vực có dân số đông nhất, ví dụ như huyện Thanh Hà, chiếm ba phần dân số của Bối Châu.
Tuy nhiên, đúng như lời Vương Hựu nói, chỉ cần lấy lại được Hoài Châu, mà không phải chịu cảnh hai mặt thọ địch, vậy thì chẳng có gì không thể bỏ được. Dân số Hoài Châu cũng không ít, đây cũng coi như một mối giao dịch tốt.
Điền Duyệt lập tức gửi hồi âm cho Vương Hựu, hoàn toàn tán thành phương án phân chia biên giới của đối phương. Một khi vấn đề biên giới được giải quyết, các cuộc đàm phán sau đó sẽ không còn là đại sự nữa. Với các cuộc đàm phán tiếp theo, Vương Hựu có thể toàn quyền đưa ra quyết định, không cần phải báo cáo lại với mình.
Khi hai bên đã đạt được nhận thức chung về việc phân định ranh giới, các cuộc đàm phán sau đó diễn ra vô cùng thuận lợi. Việc đi lại của nhân viên cũng tốt, giao thương cũng tốt. Nghiêm cấm bắt cóc dân cư lẫn nhau, cấm buôn lậu muối. Kênh Vĩnh Tế được coi là đường thủy chung của cả hai bên, cấm giữ tàu thuyền chở hàng của đối phương.
Điểm tranh chấp duy nhất giữa hai bên là việc Tấn quốc yêu cầu hủy bỏ toàn bộ trạm kiểm soát trên kênh Vĩnh Tế và Hoàng Hà. Đỗ Hữu kiên trì điều này, nhưng Vương Hựu không muốn nhượng bộ. Nếu hủy bỏ kiểm tra, việc trốn thuế và buôn lậu muối chắc chắn sẽ tràn lan.
Cả hai bên đều không chịu nhượng bộ, nhưng cuối cùng vẫn đạt được thỏa hiệp. Vương Hựu đã nhượng bộ về vấn đề thuyền công vụ.
Ngay sau đó, hai bên cũng đạt được hiệp nghị về việc Tấn quốc đặc biệt coi trọng là tàu công vụ khi qua biên giới. Cho phép mỗi tàu công vụ được đi kèm tối đa mười binh sĩ, nhưng tổng số binh lính của toàn đội tàu không được vượt quá hai ngàn người. Hơn nữa, binh sĩ theo tàu không được lên bờ. Hai bên đồng ý coi tàu công vụ như lãnh thổ của đối phương, không được ngăn cản, càng không thể tùy tiện lên tàu kiểm tra.
Để ngăn chặn thuyền buôn lậu muối giả mạo thuyền công vụ, hai bên lại quy định chế độ đo mật khi thuyền công vụ qua biên giới. Tức là, mỗi một đội tàu công vụ tr��ớc khi qua biên giới đều phải tiến hành lập hồ sơ trước, đồng thời ước định mật phù. Khi thuyền công vụ đến, sẽ kiểm tra số lượng thuyền đã được lập hồ sơ và tiến hành đo mật. Sau khi thông qua, sẽ cấp phát cờ hiệu thông hành chính thức.
Sau khi đạt được một loạt hiệp nghị, hai bên chính thức ký kết hiệp ước ngừng chiến. Hiệp ước có thời hạn hiệu lực một năm. Trước khi hiệp ước hết hạn, hai bên cần thực hiện việc bốc thăm gia hạn, hiệp ước mới có thể tiếp tục có hiệu lực.
Hiệp nghị đình chiến là một đại sự đối với cả hai bên. Đối với Ngụy quốc mà nói, mặc dù họ biết hiệp ước một năm sau chưa chắc còn hiệu lực, nhưng họ cần thời gian để chuẩn bị chiến đấu, cần thời gian để rèn luyện quân đội, và cần thời gian để chế tạo vũ khí phòng ngự cỡ lớn.
Còn đối với Tấn quốc, họ cũng cần thời gian để vận chuyển lượng lớn tài phú của Lý Vũ Tuấn và Chu Thao về Trường An bằng đường thủy, cũng như vận chuyển muối biển từ Thương Châu và Bình Châu về Trường An.
Mặt khác, việc tạm thời duy trì sự tồn tại của Ngụy quốc mới có lợi cho việc thu phục lòng dân Hà Bắc. Dân chúng Tấn quốc được hưởng chính sách nhẹ gánh, giàu có, cuộc sống sung túc, lại so sánh với dân chúng Ngụy quốc phải chịu sưu cao thuế nặng, cuộc sống khốn khổ, ta tin rằng trong lòng mỗi người đều sẽ có một cán cân riêng.
Quách Tống ký tên và đóng dấu lên hiệp ước ngừng chiến cùng các hiệp nghị phụ thuộc. Lúc này hắn mới rời khỏi Thái Nguyên, dưới sự hộ vệ của ba ngàn kỵ binh, đi tuần sát Đại Châu và Vân Châu, tạm thời chưa có ý định quay về Trường An. Hắn rời Trường An từ giữa tháng Ba, e rằng khi trở về Trường An thì đã là tháng Năm, tháng Sáu.
Trận chiến Hà Bắc lần này, kéo dài ước chừng nửa tháng, đã hoàn toàn thay đổi cục diện Hà Bắc. Tấn quốc cũng cuối cùng có được lãnh thổ ven biển.
Thực ra hai nước Ngụy và Tấn chỉ là các vương quốc, mỗi bên đều dựa vào triều đình Đại Đường ở Thành Đô và triều đình Đại Tần ở Lạc Dương. Về lý thuyết, hiệp nghị giữa hai nước phải được triều đình mỗi bên phê chuẩn mới có hiệu lực, nhưng trên thực tế, sự phụ thuộc này chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi.
Tấn quốc dám chiếm đoạt Hán Trung, Ngụy quốc cũng có thể kịch chiến với triều đình của mình ở Lê Dương. Người trong thiên hạ đều biết, mối quan hệ dựa dẫm này từ sớm đã chỉ còn trên danh nghĩa.
Sản phẩm dịch thuật này là bản quyền riêng thuộc về truyen.free.