Gặp được nhau có chắc đúng? - Chapter 2:
Ông Phúc – cái tên mà lũ bạn tôi hay gọi bố với vẻ nể sợ lẫn trêu chọc. Chính là bố tôi, một con người bảo thủ, nóng nảy và bộc trực đến khó chịu. Tôi lớn lên trong căn nhà cấp bốn chật hẹp, đủ ăn đủ mặc nhưng từ lâu đã mất đi cái không khí vui vẻ thuở nào.
Sự bảo thủ của ông hiển hiện trong từng góc nhà. Căn phòng khách lèo tèo vài món đồ: chiếc tivi cũ kỹ, hai cái ghế gỗ, cái bàn… tất cả đều do chính tay ông – một thợ mộc lành nghề đóng lấy. Ông chẳng bao giờ chịu mua đồ mới, cũng chẳng cho phép ai thay đổi trật tự “hoàn hảo” do ông tạo ra. Ngay cả tờ lịch treo gần cửa sổ, dù đã lỗi thời cả tháng, ông nhất quyết không chịu xé. “Còn dùng được, vứt đi phí!” Ông gằn giọng mỗi khi tôi nhắc.
Căn phòng thứ nhất sau khi đi từ phòng khách đấy là phòng ngủ của bố mẹ tôi, mà giờ nó chỉ còn là phòng ngủ của bố tôi thôi. Mẹ tôi đã mất khi tôi lên cấp một, nên tôi sống chung với bố từ đó tới giờ. Tôi cũng chưa bao giờ vào lại căn phòng ấy từ lúc mẹ mất.
Căn phòng tôi là minh chứng rõ nhất cho sự độc đoán ấy. Chỉ vọn vẹn một chiếc giường gỗ ông đóng, bàn học đơn sơ, sách vở. Tôi từng cố trang trí bằng vài món đồ chơi tự chế hay vật dụng lặt vặt tìm được, hy vọng xua bớt không khí ảm đạm, u tối vì thiếu nắng. Nhưng lần nào ông cũng như cơn lốc, hầm hầm xông vào, giật phăng những thứ ấy rồi quẳng ra sân đập nát hoặc vứt đâu mất. “Nhà cửa phải gọn gàng, sạch sẽ! Bày đồ linh tinh ra, vừa thừa thãi lại còn bừa bộn!”.
Tôi phản kháng, viện đến “sở thích cá nhân” và “không gian riêng”. Lần ấy, sự bùng nổ đã đến. Ông vừa ném chiếc đèn để bàn tôi tự chế bằng vỏ chai ra sân. Máu nóng bốc lên ngùn ngụt, tôi hét vào mặt ông: “Con đã lớn rồi! Sao bố không tôn trọng gì cả?”. Mặt ông đỏ gay, gân cổ nổi lên, tay nắm chặt như muốn xông tới. “Mày dám cãi bố? Đồ vô ơn!”. Hai bố con sừng sổ, chỉ chực xông vào nhau. May nhờ hàng xóm kịp thời kéo ra, nếu không hậu quả khôn lường. Từ đó, không khí trong nhà càng nặng nề. Bữa cơm chỉ còn tiếng muỗng đũa lạch cạch, vài câu hỏi - đáp cụt lủn rồi im bặt.
Thói quen hàng ngày của ông như chiếc đồng hồ cố định, không một mili giây sai lệch: 6h sáng dậy nấu ăn, ăn trưa đúng giờ, 12h30 ngủ trưa, tối về đục đẽo đồ gỗ hoặc xem tivi, 9h30 tắt đèn đi ngủ. Sự kỷ luật sắt đá ấy vô tình khiến tôi cũng thành “nạn nhân”. Tôi dậy sớm theo ông, chạy bộ nửa tiếng, về nhà thì ông đã đi làm. Đồ ăn sáng đặt sẵn trên bàn. Vậy mà tôi vẫn luôn đi học muộn vì cái tật “lơ đễnh” và chiếc đồng hồ treo tường đã hỏng từ năm cấp ba. Tôi định sửa nó bao lần, nhưng rồi quên. Ông? Ông chẳng thèm quan tâm. Cái đồng hồ sinh học trong người ông đã quá chuẩn rồi.
Hôm nay, một chuyện hy hữu: tôi đến cổng trường vừa lúc trống điểm. Bác bảo vệ cười trêu: “Lạ ghê, sớm thế hả cu?”. Tôi cười gượng, lòng thầm cảm ơn vì thoát cảnh trễ học. Vừa vào lớp, lũ bạn đã trố mắt:
“Ê, mày bị bắt đi học sớm à?”
“Đi sớm thế này… chắc chưa học bài cũ hả?” Thằng Lâm, thằng bạn cùng bàn tinh quái, nhao lên.
Câu nói như gáo nước lạnh dội thẳng vào tim. Mồ hôi túa ra, tim đập thình thịch. Đúng là ông trời chơi mình! Được hôm đi sớm thì gặp ngay “tử thần” bài cũ! May thay, cô giáo gọi Lâm lên bảng. Thằng này sáng nay còn cười hô hố trêu tôi, giờ mặt cắt không còn hột máu, đứng như trời trồng giữa lớp. Nó chẳng viết nổi chữ nào. Kết cục: một quả trứng ngỗng béo bở và bộ mặt ngượng chín người của nó.
“Tưởng thế nào!” Tôi cười khẩy, hả hê. Lâm cụp đuôi xuống chỗ ngồi, cố tránh ánh mắt đầy hài hước của tôi. Nó ngồi cạnh thằng Hùng – gã cao to, rám nắng, vô địch đủ môn thể thao tỉnh này nhưng đầu óc… “khiêm tốn” đáng thương. Còn tôi, vì tội đi muộn ngày đầu năm, bị cô chủ nhiệm tống vào góc lớp ngồi một mình, đúng vị trí “cá biệt” trong lớp ít ỏi ba mươi đứa.
Lớp chúng tôi nằm ở tầng hai cuối hành lang bên tay phải hướng cổng trường. Buổi sáng thì không sao, chứ cứ đến trưa khi nắng lên chiếu qua khung cửa sổ. Bản thân tôi đang yên giấc trên chiếc bàn, lúc đó đang trong tiết năm của buổi sáng, đó là tiết ngữ văn thứ hai mà như mọi học sinh thì tiết ngữ văn được mệnh danh là bản nhạc ru ngủ hiệu quả nhất.
Với giọng đọc lôi cuốn, trôi chảy, phong thái tự tin cùng với lời giảng đầy văn thơ khiến cho tôi không khỏi đắm chìm trong những vần thơ đấy mà… ĐI NGỦ.
Vâng đúng vậy! Chưa lần nào đến tiết ngũ văn mà hai mắt tôi không khỏi nhắm mắt lại, tưởng trừng như đang nghe những lời mẹ ru vậy. Nhưng mà hôm nay, đến tiết cuối thì ánh nắng buổi trưa làm cho tôi tỉnh giấc mà chăm chú nghe giảng.
Cô ngữ văn vẫn đang cần mẫn giảng từng câu thơ một cách chăm chú, tuy tôi chả hiểu mô tê gì hết nhưng vẫn thấy rất lôi cuốn.
Tuy có hơi có lỗi với tâm huyết của cô nhưng biết sao giờ, cũng trách tôi không có tí năng khiếu văn học nào cả. Buổi học hôm đó cũng đã kết thúc trong êm đẹp.
Cuộc sống tôi vẫn trôi qua bình thường như chiếc lá rơi giữa dòng sông lặng. Tuần ấy, tôi đi học muộn một hôm duy nhất. May sao hôm đó trốn được tiết chủ nhiệm, thoát cảnh đứng gục đầu ngoài hành lang như chú chim bị bỏ rơi.
Rồi cái ngày mong đợi cũng đến: cuối tuần đi câu! Tối hôm trước, tôi cùng Lâm và Cảnh lụi cụi đào giun sau vườn nhà bà hàng xóm. “Xoẹt! Xoẹt!” Tiếng cuốc bổ xuống đất ẩm đầm và chắc rất đã tay. Những chú giun đất mập mạp, hồng hào giãy đành đạch trong chiếc hộp thiếc cũ kỹ. Quan trọng hơn là “vũ khí bí mật”: mồi dụ cá. Chúng tôi trộn thính gạo xin được từ nhà máy xát với chút nước sông, nắm thành từng nắm chặt tay, dẻo quẹo. Mùi thính nồng nặc, ngai ngái lan tỏa khắp lối đi.
Sáng hôm sau, đoàn quân “cần thủ nghiệp dư” lên đường. Ba đứa với hai chiếc xe đạp cà tàng. Tôi phải “hy sinh” chở thằng Cảnh mập ú, cứ mỗi lần đạp lên dốc, bánh xe kêu “cót két... cót két...” như sắp toác ra từng mảnh. Thằng Lâm may mắn đi một mình, còn Cảnh thì ôm chặt lưng tôi, trên vai vác bộ đồ nghề lủng củng: ba cần câu trúc, xô nhựa, túi thính, hộp giun.
.. “Nặng quá mày ơi! Tao tưởng mình đang chở con hà mã đấy!” Tôi thở không ra hơi. Cảnh chỉ biết cười hì hì, mặt đỏ bừng vì gắng sức.
Điểm câu lý tưởng nằm dưới chân cầu, dưới là một nhánh sông, những rễ cây cổ thụ chằng chịt đâm xuống nước. Bóng mát rợp cả một vùng, nước chảy lững lờ tạo thành những xoáy nhỏ lăn tăn. “Chỗ này nhiều cá lắm! Tao nằm mơ thấy bắt được con cá trê to bằng cái xô!” Lâm hùng hồn tuyên bố, tay chỉ về phía khúc gỗ lớn mắc kẹt gần bờ, nơi nước đục ngầu vì phù sa. Bọn tôi đặt cược: đứa nào câu được ít cá nhất sẽ làm “ô sin”, chủ yếu làm sạch, nướng cá và phục vụ hai đứa còn lại!
Trận chiến bắt đầu! “Rào... rào... rào...” những nắm thính được ném xuống sông, chìm nghỉm rồi từ từ tỏa mùi. Tôi móc một chú giun béo núc, mẩy ú lên lưỡi câu sắc lẹm. “Phựt!” Cần câu vung lên, dây câu vút không trung rồi rơi xuống nước với tiếng “tõm” nhẹ. Chiếc phao màu đỏ tươi nổi lềnh bềnh, lắc lư nhè nhẹ theo dòng nước.
Nửa tiếng trôi qua... im ắng như tờ. Chỉ nghe tiếng muỗi vo ve “o o...” bên tai, tiếng gió xào xạc trong tán lá và... tiếng ngáy khẽ “khò... khò...” của thằng Cảnh đang gục xuống đùi! Lâm thì ngồi bó gối, mắt dán vào phao nhưng mí mắt díp lại díp mở. “Kiểu này chắc cá có cắn câu... cũng chả hay biết gì!” Tôi lẩm bẩm, ngáp dài đến trẹo quai hàm.
Bỗng! “Tưng tưng! Tưng tưng!” Chiếc phao của Lâm chìm phập xuống nước rồi bật lên liên hồi! Lâm bật dậy như lò xo, mắt mở to như hai cái đĩa: “Cá! Cá cắn câu! Lớn lắm!”. Nó giật cần thật mạnh, hai tay níu chặt, chân đứng tấn, mặt đỏ gay. “Dô... dô... nào! Lên đây em ơi!” Lâm hò hét như vận động viên kéo co, từ từ kéo cần lên khỏi mặt nước trong sự chứng kiến háo hức của cả bọn.
Rồi... “Ầm!” Vật thể đen sì, dài ngoẵng văng lên bờ. Cả ba đứa sững sờ. Không phải cá! Mà là một khúc cây mục to bằng bắp chân, đầy rêu xanh! “Á... á... khúc củi?!” Lâm kêu lên thất thanh, mặt cậu biến sắc, tay buông thõng cần câu. Cảnh ôm bụng cười lăn cười bò: “Ha ha ha! 'Em' của mày... gỗ lim à? Chắc 'em' nặng tình với mày lắm!”. Tôi cũng cười đến rơi nước mắt, chỉ tay vào khúc gỗ: “Chúc mừng 'cần thủ' Lâm! Mẻ lưới đầu tiên... đúng chất siêu phẩm luôn!”. Lâm đỏ mặt tía tai, đá khúc gỗ một cái đành đạch rồi lầm bầm: “Tại nó giật mạnh quá... tưởng cá chép chứ!”.
Chưa hết trò hề, đến lượt tôi. Phao tôi bỗng rung lên bần bật. “Tưng tưng tưng... rụt rụt!” Liên tục như trống lân. Tôi nín thở, giật cần đúng bài bản. Một vệt vàng óng ánh ló dạng dưới nước! “Úi chà! Cá chép!” Cảnh hét lên. Con cá vùng vẫy dữ dội, kéo sợi dây căng thẳng “rít... rít...”, nước bắn tung tóe lên. Tôi bình tĩnh dìu cá, chờ nó đuối sức rồi nhanh tay giật mạnh. “Quẫy! Quẫy!” Con cá chép to cỡ bàn tay người lớn, vảy vàng lấp lánh, đập đành đạch trên bãi cỏ. Tôi hãnh diện cầm xô chạy như bay sang chỗ Lâm và Cảnh, miệng la toáng: “Chuẩn bị làm 'ô sin' đi nhóc con! Cá chép 'vàng' của bố đây!”. Lâm nhìn con cá, rồi nhìn đống “chiến lợi phẩm” chỉ có khúc gỗ của nó, mặt xị như bị. Cảnh thì vỗ tay “tùng tùng” cổ vũ.
Thế nhưng... trời không chiều lòng người! Hai tiếng sau, xô của tôi vẫn chỉ lẻ loi một con cá chép. Trong khi đó:
Lâm: Câu được thêm một con cá rô phi be bé và một con cá diếc nhỏ xíu (nó nhất quyết không chịu thả, giữ để “lấy le” với tôi).
Cảnh: Bỗng thành “vua câu cá”! Cần nó cứ rung lên “tưng tưng” liên hồi. “Lên này! Lại một em nữa! Ôi em rô béo ơi là béo!” Cảnh hô hào sung sướng. Xô nó đầy ắp: một con chép to hơn của tôi, năm sáu con rô phi mập mạp, vài con cáy nhỏ xíu... “Mày... mày bỏ bùa câu cá hả?” Lâm nhìn xô Cảnh, mắt tròn xoe đầy ghen tị.
Giờ nghỉ trưa, tôi - kẻ thua cuộc đáng thương, phải vào vai “ô sin đứng bếp củi”. “Lạch! Cạch!” Tiếng dao sắc xẻ thịt cá, lọc ruột. “Tách... tách... tách...” những con cá tươi rói được xiên que, nướng trên than hồng, tỏa mùi thơm phức, mỡ chảy ròng ròng xuống lửa tạo thành những tiếng “rào rào” nghe đã thèm. Bọn tôi mang theo cơm nắm muối vừng. Thằng Cảnh bỗng thò tay vào túi, lôi ra một gói bột canh mì tôm nhàu nát: “Quà tặng kèm đây! Rắc lên cá nướng, ngon tuyệt cú mèo luôn!”. Tôi tròn mắt: “Mày đúng là số một!”. Nó cười hềnh hệch: “Hôm qua tao ăn mì sống... chán quá bỏ đi thì phí, nhớ ra ngày mai nướng cá, đành để dành cho hôm nay!”. Chúng tôi vừa ăn vừa cười nói rôm rả, cá nướng thơm lừng pha lẫn mùi khói cay cay.
Đang ăn ngon lành... Bỗng! “RẦM! RẦM!” Cần câu của tôi bị giật mạnh đến nỗi suýt bay xuống sông! Tôi lao tới, giật lấy cần. “Rít... rít... rít...” sợi dây căng như dây đàn, rung lên bần bật. Một cuộc vật lộn dữ dội! Con cá (có lẽ to lắm!) kéo cần quật tứ phía. “Dô hô... dô hô!” Cả ba đứa hò reo cổ vũ. Cuối cùng, tôi cũng kéo được lên: một chú cá trê to bằng bắp tay, râu dài ngoằng, đang giãy đành đạch “bành bạch” trên bờ! “Hoan hô! Lật kèo thành công!” Cảnh vỗ tay rôm rập.
Chiều hôm ấy, chúng tôi câu thêm được kha khá. Tổng kết: một xô đầy cá rô, chép, trê... Chỉ thả lại mấy chú cá tép con. Trên đường về, thằng Lâm đạp xe phóng như bay về nhà trước (chắc ngại làm “ô sin” dù đã thoát thua). Cảnh và tôi chậm rãi đạp xe, chiếc xô cá đung đưa ở ghi đông, leng keng như một khúc nhạc chiều thắng lợi.
Tối đó, tôi hí hửng nấu một nồi canh riêu cá chua ngọt thơm nức. Mùi cá tươi hòa quyện với mùi thơm của thì là, hành lá lan tỏa khắp gian bếp nhỏ. Thế nhưng... bữa cơm tối với bố vẫn là một bản nhạc buồn chỉ có vài nốt lặng. Ông ngồi xuống, đũa gõ nhẹ “cạch” vào mép bát. “Cá đi câu đấy à?” giọng ông khô khốc. “Dạ...” tôi gắp miếng cá rán vàng ruộm lên bát. Ông ăn một miếng, nhai chậm rãi. “Cá rán... hơi cháy.” Ông bình luận ngắn gọn rồi tiếp tục ăn trong im lặng. Tôi chỉ biết cúi mặt xuống bát cơm, tiếng “ù ù” trong đầu át đi cả tiếng riêu cá sôi “sùng sục” trên bếp. Niềm vui buổi chiều như tan biến trong không khí lạnh lẽo của căn nhà cấp bốn.