(Đã dịch) Đế Quốc Babylon - Chương 728 : Cùng binh độc vũ?
Qusay biết mình đang chi tiêu khá nhiều, nhưng khi nghe Hikmat báo cáo, anh vẫn không khỏi giật mình: lẽ nào Iraq đã trở nên nghèo xơ xác đến thế ư?
Năm nay sắp kết thúc. Với tư cách Bộ trưởng Bộ Tài chính Iraq, Hikmat đương nhiên phải rà soát toàn bộ tình hình tài chính quốc gia trong năm qua. Kết quả là, ông ta thất vọng đến cùng cực khi nhận ra rằng, với cương vị Bộ trưởng Bộ Tài chính Iraq, mình thực sự cảm thấy bất lực.
"Thưa Ngài Tổng thống, tôi xin phép báo cáo sơ lược ngay bây giờ." Hikmat ban đầu định chuẩn bị một báo cáo chi tiết, nhưng giờ đây, ông chỉ có thể nói qua loa những điểm chính. Là một lãnh đạo cấp cao ưu tú của Iraq, Hikmat đã ghi nhớ toàn bộ số liệu trong đầu.
"Trong năm 1984 này, các khoản chi tiêu chính của chúng ta được chia thành một số hạng mục như sau: Đầu tiên là việc mua một lượng lớn vũ khí từ Liên Xô, bao gồm tên lửa Sam-11, tên lửa OTP-23, dây chuyền sản xuất trực thăng Mi-24, tên lửa R-73, máy bay vận tải IL-76 các loại; cùng với việc Ngài đã ký kết với Liên Xô để sơ bộ thống nhất xuất khẩu hai lò phản ứng hạt nhân cho chúng ta, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt điện năng và đối phó với sự bất mãn của Mỹ. Dù mới chỉ thanh toán tiền cọc, chúng ta đã tiêu tốn ba tỷ đô la. Đồng thời, Ngài cũng đã ký kết một loạt hiệp định với cường quốc phương Đông, đặc biệt là việc mua một tàu huấn luyện hải quân cỡ lớn và mười tàu tên lửa. Chúng ta còn tự xây dựng xưởng đóng tàu, đồng thời đầu tư tài chính để hỗ trợ nhiều dự án của cường quốc phương Đông, bao gồm các hạng mục Y-10, WS-6... Chúng ta đã đầu tư một tỷ đô la vào các hạng mục này. Về các dây chuyền sản xuất trong nước, chúng ta đã sản xuất bốn mươi chiếc máy bay chiến đấu F-20 kiểu mới và mười lăm chiếc Mirage 4000, bao gồm cả dây chuyền sản xuất Mirage 4000, với tổng số tiền là một tỷ ba trăm triệu đô la. Chúng ta cũng sản xuất hai trăm chiếc xe tăng T-72 kiểu mới và tên lửa hành trình series Hồng Điểu, tiêu tốn một trăm triệu đô la. Khoản đầu tư dành cho các bộ phận đặc biệt của đất nước (vũ khí hạt nhân) là năm trăm triệu đô la. Các khoản đầu tư thường xuyên cho quân đội, bao gồm việc đóng quân tại khu vực Iran và Cao nguyên Golan (mới kết thúc gần đây), lên đến hai tỷ đô la. Trong khi đó, cuộc xung đột của chúng ta với Israel lần này, dù có sự hỗ trợ của Saudi và Kuwait, vẫn tiêu tốn khoảng một trăm tám mươi triệu đô la. Đặc biệt, số lượng tên lửa đạn đạo của chúng ta đã không còn nhiều, và việc mua sắm thêm sẽ lại là một khoản chi tiêu khổng lồ. Về mặt dân sự, chúng ta đã nhập khẩu hai loại xe tải hạng nặng của Benz và Steyr, đầu tư một trăm triệu đô la. Kế hoạch năm năm đầu tiên trong nước đã bắt đầu triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, chúng ta đã lần lượt đầu tư hai tỷ năm trăm triệu đô la. Chúng ta thành lập một số trường đ��i học và trường kỹ thuật mới, đầu tư gần một trăm triệu đô la. Các chi tiêu thường xuyên còn lại trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, vệ sinh, giao thông, nông nghiệp cũng lên tới hai trăm triệu đô la. Sơ bộ tính toán, tổng chi tiêu của chúng ta đã vượt mười một tỷ đô la. Nếu các hạng mục đã đặt cọc được thanh toán đầy đủ, dự kiến chúng ta sẽ cần thêm từ hai mươi đến bốn mươi tỷ đô la nữa," Hikmat nói.
"Về thu nhập của chúng ta, tính đến thời điểm này, chủ yếu vẫn là từ dầu mỏ. Nguồn này chiếm đến chín mươi phần trăm tổng thu nhập tài chính của chúng ta. Các nhà máy công nghiệp vũ khí của chúng ta dự kiến phải sang năm mới có đủ năng lực sản xuất để xuất khẩu một phần vũ khí, mang về nguồn ngoại tệ quý giá. Trong hơn nửa đầu năm, thành tích xuất khẩu dầu mỏ của chúng ta tạm ổn, tổng thu nhập đạt khoảng bảy tỷ đô la. Nếu nửa năm cuối vẫn duy trì mức này, chúng ta vẫn có thể cân bằng thu chi trong năm nay. Nhưng trong mấy tháng đối đầu với Israel vừa qua, để phản đối việc các quốc gia phương Tây ủng hộ Israel và sau đó áp đặt lệnh trừng phạt lên chúng ta, chúng ta đã liên tục thực hiện nhiều đợt giảm sản lượng và cấm vận dầu mỏ. Dù giá dầu quốc tế đang tăng vọt, nhưng vì lượng dầu xuất khẩu của chúng ta quá ít, doanh thu từ dầu mỏ của chúng ta đã giảm nhanh chóng, cho đến nay chỉ thu về hai tỷ đô la. Thêm vào đó, do dân số quốc gia chúng ta tăng lên và thu hoạch lương thực năm nay không đủ, chúng ta lại phải chi thêm một trăm triệu đô la để nhập khẩu lương thực từ nước ngoài. Do đó, dù hiện tại việc xuất khẩu dầu mỏ của chúng ta đang dần trở lại bình thường, nhưng khoảng cách giữa thu và chi năm nay của chúng ta ngày càng lớn. Nếu không phải còn một chút quỹ dự trữ, có lẽ giờ này chúng ta đã phải sống nhờ nợ nần."
Qusay nghe xong thì nhức óc. Anh ta đã nghĩ đến bốn chữ: “dốc binh độc vũ”. Hiện tại, khoản đầu tư vào quốc phòng của Iraq đã vượt xa các khoản chi tiêu ở những lĩnh vực khác. Nói cách khác, Iraq nói là phát triển kinh tế, nhưng thực chất là tập trung vào phát triển quân sự, không tiếc công sức. Tuy nhiên, không có quốc gia nào chi tiêu kiểu này như Iraq, bởi vì việc phát triển quân sự của Iraq không chỉ dừng lại ở việc nhập khẩu từ nước ngoài. Iraq còn liên tục nhập khẩu dây chuyền sản xuất, tự mình sản xuất, từng bước tích lũy công nghệ và tuyển dụng một lượng lớn nhân sự. Điều này khiến chi phí tăng lên theo cấp số nhân.
Ví dụ như, nếu Iraq trực tiếp nhập khẩu xe tăng mà không cần mua dây chuyền sản xuất hay công nhân vận hành, thì đơn giá xe tăng sẽ thấp hơn. Bởi vì việc đầu tư dây chuyền sản xuất là vô cùng lớn, chưa kể Iraq còn tự mình cải tiến một số chi tiết.
Nhưng Qusay biết, Iraq hiện tại buộc phải làm như vậy. Muốn Iraq hùng mạnh, nhất định phải đầu tư vào quốc phòng, xây dựng Iraq trở thành một cường quốc quân sự, một cường quốc quân sự thực sự! Việc sở hữu tài nguyên quý giá dưới lòng đất mà không có năng lực tương xứng để bảo vệ chúng là điều vô cùng đáng sợ. Những gì Iraq đã trải qua trong tương lai vẫn luôn nhắc nhở Qusay rằng, Iraq hiện tại chỉ có một lựa chọn: nắm bắt cơ hội này, phát triển nhanh chóng, cấp bách! Ở giai đoạn sơ khai nhất này, nhất định phải có những khoản đầu tư lớn, dù hiện t��i chưa thấy rõ hiệu quả. Điều này cũng giống như việc nuôi gà. Iraq hiện tại đang nuôi một bầy gà con vừa mới nở, cần phải liên tục đầu tư, đầu tư và đầu tư. Khi nào những con gà này trưởng thành, có thể đẻ trứng và ấp ra gà con, thì trại gà sẽ bước vào giai đoạn phát triển tuần hoàn tốt đẹp. Đợi thêm vài năm nữa, những con gà con mà Iraq đang nuôi bây giờ cũng sẽ đẻ ra vô số trứng vàng, mang lại cho Iraq nguồn tài sản không ngừng nghỉ! Chỉ riêng việc xuất khẩu vũ khí từ nền công nghiệp của Iraq cũng đủ để mang lại nguồn lợi nhuận dồi dào. Việc thắt chặt chi tiêu lúc này là để đổi lấy những món ngon vật lạ sau này.
Trong tương lai, sau cuộc chiến tranh Iran-Iraq, Iraq cũng rơi vào cảnh nợ nần chồng chất. Trước cuộc chiến, Iraq có hơn ba mươi tỷ đô la dự trữ ngoại hối, nhưng sau đó lại nợ bảy mươi tỷ đô la. Tuy nhiên, đó là một kiểu tăng trưởng dị thường, thực sự là không màng dân sinh mà chỉ lo dốc binh độc vũ. Bởi vì Qusay xuyên không, và đã nắm giữ toàn bộ quyền lực, nên vào cuối năm 1984, khi đã cơ bản bình định Iran, anh ta có thể rảnh tay dốc sức phát triển quốc gia. Trong kế hoạch năm năm đầu tiên, riêng năm nay đã đầu tư hai tỷ năm trăm triệu đô la, đây quả là một khoản chi lớn.
Không ngờ rằng, Iraq giàu có giờ đây lại trống rỗng quốc khố. Đến cả dự án trị giá hàng trăm triệu đô la với Thụy Điển cũng không thể chi trả.
Làm sao bây giờ? Chẳng lẽ lại phải tìm Saudi và Kuwait vay thêm tiền sao? Hay là tiếp tục lôi kéo họ tham gia các dự án của mình? Nhưng đó dường như cũng không phải một phương án quá hoàn hảo. Nếu họ cũng tham gia các dự án của Iraq, thì sau này Iraq còn mặt mũi nào mà đẩy giá các loại vũ khí lên cao được nữa?
Qusay đang trầm tư thì nghe Bộ trưởng Thương mại Mohammed bất mãn nói: "Lệnh cấm vận dầu mỏ lần này của chúng ta, ngược lại lại vô tình giúp đỡ người Anh, khiến nền kinh tế của họ, vốn từng trở nên tồi tệ, lại có sự chuyển biến tích cực."
Người Anh ư? Nhắc đến những kẻ tay sai và đồng lõa của Mỹ này, họ vẫn luôn bám sát theo sau Mỹ. Trong lần trước, sau khi Mỹ tuyên bố trừng phạt Iraq, Anh là quốc gia kiên quyết thực hiện nhất. Họ đã rút các chuyên gia của bộ phận máy bay cảnh báo sớm Hawker Siddeley Nimrod đã bán cho Iraq, buộc các chuyên gia của Iraq phải tự mày mò cùng với sự giúp đỡ của nhân viên kỹ thuật từ cường quốc phương Đông để phát triển máy bay cảnh báo sớm mới. Họ còn chấm dứt dự án tên lửa Skyflash, trắng trợn nuốt chửng khoản đầu tư ban đầu của Iraq. Iraq có thể nói là hoàn toàn thất vọng tột độ với Anh.
Trong khi đó, sau khi các cường quốc sản xuất dầu mỏ ở Trung Đông tuyên bố giảm sản lượng và cấm vận dầu mỏ vì sự trừng phạt bất công của Mỹ đối với Iraq, giá dầu quốc tế một lần nữa tăng vọt như khúc khải hoàn ca. Do lệnh cấm vận kéo dài quá lâu, các nước sản xuất dầu mỏ cũng bị giảm sút thu nhập đáng kể, điển hình là Iraq. Nhưng Anh lại như thể vớ được cọng cỏ cứu mạng, thậm chí còn mong muốn cuộc khủng hoảng này kéo dài hơn nữa, bởi vì Anh cũng là một quốc gia có ngành công nghiệp dầu mỏ!
Nằm giữa tây bắc lục địa châu Âu và đảo Great Britain là một vùng biển vốn không được chú ý nhiều. Điều kiện khí hậu nơi đây vô cùng khắc nghiệt, hơn 2/3 thời gian trong năm là mưa dầm, gió lớn sóng cao. Vì thế, từ xưa đến nay, không ai ngờ rằng nơi đây lại có nguồn tài nguyên dầu khí phong phú, với trữ lượng dầu mỏ dưới đáy biển được xếp thứ ba thế giới, chỉ sau vịnh Persian và vịnh Maracaibo!
Mãi đến năm 1959, sau khi phát hiện mỏ khí lớn Groningen ngoài khơi Hà Lan, năm 1965, lần đầu tiên phát hiện các mỏ khí ở phía nam Biển Bắc. Năm 1969, mỏ dầu lớn Ekofisk được tìm thấy ở khu vực Graben trung tâm. Năm 1971, mỏ dầu lớn Brent được phát hiện ở khu vực Viking Graben phía bắc. Nguồn tài nguyên dầu khí phong phú của Biển Bắc bắt đầu thu hút sự chú ý của các quốc gia xung quanh, trong đó, Anh quốc sở hữu một diện tích ven biển khoảng năm trăm mười nghìn ki-lô-mét vuông.
Anh bắt đầu thăm dò dầu khí ở Biển Bắc từ thập niên 60, và bắt đầu khai thác dầu vào năm 1975. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt khiến việc khai thác ở đây vô cùng khó khăn, do đó tiến độ khai thác luôn rất chậm chạp. Mãi cho đến khi kinh tế Anh bắt đầu gặp khó khăn, Anh mới quyết tâm đẩy mạnh khai thác. Đặc biệt là sau cuộc chiến tranh Falklands, kinh tế Anh phục hồi và càng phụ thuộc nhiều hơn vào biển. Sau hơn hai năm nỗ lực, cuối cùng trong năm nay, sản lượng đã vượt mốc hàng trăm triệu tấn, và điều may mắn là đúng lúc giá dầu tăng cao. Việc khai thác dầu mỏ của Anh đã đủ đáp ứng nhu cầu quốc gia, không còn phải chịu đựng giá dầu thô cao ngất ngưởng từ vịnh Persian. Hơn nữa, Anh còn có thể nhân cơ hội giá dầu tăng cao này để xuất khẩu dầu thô sang các quốc gia Tây Âu, mang về lượng lớn ngoại tệ. Có thể nói, cuộc khủng hoảng Trung Đông lần này đã cứu sống nền kinh tế Anh.
Bản quyền nội dung này thuộc về truyen.free, nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức.