(Đã dịch) Chương 40 : Khách không mời mà đến
Ngày hôm sau, trời vừa rạng sáng, Quách Tống đưa bộ lạc Hắc Sơn đi xa hơn mười dặm. Sau đó, chàng một mình cưỡi ngựa trở về doanh trướng. Doanh trướng của chàng hôm qua đã được dời đến bên hồ, và nơi đây chỉ có duy nhất một chiếc lều cũ kỹ, cô độc nằm đó.
Quách Tống bước vào đại trướng của mình. Trên nền đất phủ một lớp da dê, là do Anh Cô trải sẵn để chàng có thể trực tiếp nằm ngủ trên đó vào ban đêm.
Giữa lều là một lò sưởi được xây bằng đá xanh xếp thành vòng tròn. Trong lò, củi cháy bập bùng, cũng có thể dùng để nướng thịt dê. Phía trên lò sưởi có một giá gỗ nhỏ khá lớn, ở giữa treo một chiếc hũ gốm trên thanh ngang, người Khương gọi đó là 'trà cái siêu', dùng để pha trà.
Trong đại trướng chẳng có mấy món đồ dùng. Chỉ có một chiếc rương lớn đóng bằng gỗ thô sơ, một gốc cây to dùng làm bàn, cùng vài chiếc chén sứ thô mộc.
Chiếc rương lớn chứa chất đống mấy chục cân thịt khô. Bên cạnh là hai vò lớn rượu sữa ngựa và một vò pho mát, còn trong góc khuất có một cặp trà bánh.
Quách Tống đốt lửa, lấy hơn nửa ấm nước trong hồ, bẻ một miếng trà bánh nhỏ bỏ vào ấm trà. Chàng còn cho thêm một chút tía tô khô, một nhúm muối, rồi bỏ vào hai khối pho mát.
Văn nhân nhã sĩ, quan lớn quyền quý thời Đường thường uống trà theo kiểu pha, rất chú trọng đến nguồn nước, dụng cụ và lửa. Nhưng đối với dân chúng bình thường và cư dân vùng biên ải, uống trà không đơn thuần là pha trà, mà là 'dùng trà': nấu cùng các loại hương liệu, muối, và cuối cùng ăn cả lá trà. Cách làm của người Khương cũng cơ bản tương tự, chỉ là dụng cụ pha trà thô sơ hơn, và họ còn cho thêm một chút pho mát để tạo thành trà sữa.
Quách Tống đã ở cùng người Khương ba năm, quen với trà sữa Anh Cô nấu và rượu sữa ngựa. Dù loại rượu này cực kỳ nồng, mạnh và tanh, chàng vẫn có thể uống hết năm cân mà không say. Tuy nhiên, khả năng uống không có nghĩa là chàng yêu thích. Chàng vẫn chuộng rượu đế và rượu nho của người Hán hơn, nhưng tiếc là ở đây không có.
Chỉ chốc lát sau, trà cái siêu đã nóng hổi, hương trà sữa thơm nồng xộc vào mũi. Chàng dùng gậy gỗ khuấy nhẹ, rồi đổ trà vào một ống tre lớn, đó chính là chén trà của chàng.
Thịt khô Anh Cô để lại là lương thực dự trữ, dùng khi ra ngoài. Còn lúc này, Quách Tống tự nướng hai con cá.
Quách Tống nhanh chóng ăn xong cá nướng, uống cạn sạch trà sữa trong ống tre, rồi dập lửa. Chàng nhặt cung tiễn và chiến đao, nhanh chóng rời lều.
Ngoài doanh trướng, hàn phong lạnh buốt thấu xương. Giữa đất trời l�� một khoảng không mênh mông, cả bờ hồ Hưu Đồ chỉ có chàng, một ngựa, một ưng. Quách Tống liền xoay người lên ngựa, phi nhanh về trường bắn tên cách đó hơn mười dặm.
Mười ngày sau khi bộ lạc Hắc Sơn rời đi, một trận bão tuyết quét qua hồ Hưu Đồ. Đêm xuống, hàn phong gào thét, phát ra những tiếng rít ghê rợn. Đại trướng bị thổi đến rung bần bật, như thể có thể bị bão tuyết cuốn đi bất cứ lúc nào.
Trong đại trướng, ánh lửa lúc sáng lúc tối. Quách Tống khẽ ngâm nga, nhanh chóng nướng cá trên lửa. Trong trà cái siêu, trà sữa sôi ùng ục, khiến cả đại trướng ngập tràn mùi sữa thơm nồng.
Chiến mã của chàng cũng ở trong đại trướng, lặng lẽ gặm cỏ khô, thỉnh thoảng uống một ngụm nước tuyết tan.
Trên chiếc rương gỗ, đại bàng Mãnh Tử đang đậu. Trên đỉnh đầu nó có hai túm lông mào đen dài, trông đặc biệt nổi bật. Nó đang nhắm mắt ngủ, thỉnh thoảng khẽ mở mắt, để lộ ánh nhìn khinh thường, như thể cực kỳ coi nhẹ cách Quách Tống ăn cá, cho rằng đó là sự lãng phí thịt cá tươi ngon.
Lúc này, Quách Tống bỗng dừng tay, ngưng thần lắng nghe. Vừa rồi chàng rõ ràng nghe thấy tiếng ngựa hí, nhưng khi lắng nghe lại, âm thanh ấy đã biến mất.
"Chẳng lẽ mình nghe lầm?" Chàng liếc nhìn Mãnh Tử một cái: "Này! Ngươi vừa rồi có nghe thấy gì không?"
Mãnh Tử nhắm nghiền mắt, vùi đầu vào lớp lông, hoàn toàn phớt lờ câu hỏi của chàng.
"Chắc là ta nghe lầm thật rồi! Thời tiết khắc nghiệt thế này, ai sẽ ra ngoài chứ?"
Quách Tống tự giễu cười một tiếng.
Rất nhanh, chàng ăn uống no đủ, ngả mình lên lớp da cừu và chìm vào giấc ngủ sâu không lâu sau đó.
Ngày hôm sau, trời vừa rạng sáng, tiếng kêu lớn của Mãnh Tử vang vọng bầu trời. Quách Tống, người đã ngồi thiền gần một canh giờ, mở mắt.
Quách Tống dẫn ngựa ra khỏi đại trướng. Bên ngoài, tuyết nhỏ lại rơi, nhưng gió đã ngừng. Tuyết đọng dày chừng nửa thước. Giữa đất trời tối tăm mịt mờ, một không gian mênh mông vô tận hiện ra. Có một cảm giác về sự mênh mông của đất trời, nỗi bi thương đơn độc mà nước mắt tuôn rơi giữa không gian rộng lớn ấy. Nhưng sâu thẳm trong lòng, chàng cũng cảm thấy một nỗi cô độc khó lòng giải tỏa.
Hôm nay là ngày luyện bắn tên dưới nước. Đa phần thời gian, Quách Tống chọn khu vực bờ phía Bắc hồ, nơi có nhiều rong rêu, nhiều chướng ngại vật, và cũng có nhiều cá.
Quách Tống cưỡi ngựa vòng quanh hồ Hưu Đồ, tiến đến bờ phía Bắc.
Chàng cởi đạo bào, toàn thân chỉ mặc một chiếc quần cụt. Chàng đi chân trần trên mặt băng. Vào thời điểm lạnh nhất năm ngoái, lớp băng dày đến hai thước, nhưng giờ đây chỉ còn chừng nửa thước.
Chàng bất chợt đâm kiếm vào lớp băng, vận lực cắt nhanh một vòng tròn lớn có đường kính hai mét. Sau đó, chàng dậm chân một cái thật mạnh, khối băng tròn vừa bị cắt ra lập tức vỡ tan thành nhiều mảnh.
Quách Tống ném một tảng đá lớn nặng đến trăm cân vào hồ. Cơ thể chàng chìm xuống, trượt vào làn nước hồ băng giá thấu xương. Dưới đáy hồ sâu năm mét, không một tia sáng, đen kịt một màu.
Quách Tống dùng chân ôm lấy tảng đá lớn trăm cân, toàn bộ cơ thể chàng lẳng lặng lơ lửng trong nước. Chàng nhắm mắt lại, cảm nhận dòng nước và đủ loại vật thể chạm vào cơ thể mình dưới nước: có cá, có rắn nước, và cả những xúc tu dài, mảnh mai – có thể là rong rêu, cũng có thể là sinh vật nào đó khác.
Nhưng chàng không hề cảm thấy nguy hiểm. Đây là một thế giới dưới nước vô cùng yên tĩnh.
Một con cá lớn, ít nhất nặng bốn, năm cân, chạm vào cánh tay chàng rồi bơi về hướng đông bắc.
Quách Tống lập tức giương cung lắp tên, kéo căng dây cung dưới nước, rồi bắn một mũi tên. Con cá kia đã bơi xa hơn hai mươi bước. Nó chợt cảm nhận được điều gì đó, vẫy đuôi một cái, vừa định đổi hướng thì 'Phốc' một tiếng, mũi tên đã xuyên thủng thân nó.
Quách Tống đã ở dưới nước được một nén nhang, sắp đạt đến cực hạn nín thở của mình.
Chàng nới lỏng chân, cơ thể liền nhanh chóng nổi lên mặt nước. . . .
Cá ở phía bắc hồ Hưu Đồ quả thực nhiều hơn phía nam. Chỉ trong một buổi sáng, chàng đã bắt được mười hai con cá lớn, con cá trích nhỏ nhất cũng nặng hai cân. Một buổi thu hoạch khá tốt.
Quách Tống đặt đống cá trên mặt băng, rồi ngậm ngón tay huýt sáo, ý bảo Mãnh Tử xuống hưởng thụ.
Không ngờ, Mãnh Tử không hề bay xuống. Quách Tống ngẩn ra, đây là lần đầu tiên xảy ra chuyện này. Chàng nheo mắt nhìn lên trời tìm kiếm, lờ mờ trông thấy Mãnh Tử đang lượn vòng trên không trung phía bờ Nam hồ.
"Đã xảy ra chuyện gì vậy?"
Quách Tống vội vã mặc vớ giày và đạo bào, thay một chiếc quần đùi khô ráo. Chàng xoay người lên ngựa, thúc ngựa phi nhanh về phía bờ Nam hồ.
Khi cách đại trướng hơn một trăm bước, Quách Tống bỗng ghìm chặt chiến mã. Trên mặt đất xuất hiện những dấu vó ngựa lộn xộn, cho thấy đã có người đến đây.
Chàng lập tức tung người xuống ngựa, rút kiếm vào tay, từng bước tiến về phía đại trướng của mình.
Còn cách đại trướng vài chục bước, chàng dừng lại. Chàng thấy một vùng lớn dấu vó ngựa lộn xộn hướng về phía đông. Quách Tống đứng đó lắng nghe thêm một lát, xác định trong đại trướng không có động tĩnh gì, lúc này mới tiến lên dùng kiếm gạt tấm màn lều ra.
Trong đại trướng của chàng một mảnh hỗn độn. Lớp da dê trải trên đất đã biến mất, ấm trà gốm vỡ tan tành, giá gỗ nhỏ cũng bị chém thành nhiều đoạn. Tàn lửa trong lò sưởi đã tắt hẳn, và mơ hồ còn có mùi khai của nước tiểu.
Chiếc rương lớn của chàng bị đổ nghiêng trên đất, thịt khô, rượu sữa ngựa, pho mát và trà bánh đều không còn, đã bị cướp sạch sẽ. Ngoại trừ chiếc đại trướng này, chàng chẳng còn gì nữa.
Một luồng nộ khí dâng lên trong lồng ngực Quách Tống. Đây chắc chắn không phải việc do dân du mục làm. Vậy thì là ai? Dân đãi vàng? Hành lang Hà Tây có không ít dân Hán làm nghề đãi vàng, họ thường trộm dê của dân du mục và tai tiếng rất xấu. Chẳng lẽ là bọn họ?
Lúc này, bên ngoài truyền đến tiếng kêu lớn của Mãnh Tử. Quách Tống quay người lao ra đại trướng, chỉ thấy Mãnh Tử đang lượn vòng trên bầu trời cách đó hơn mười dặm về hướng đông nam. Quách Tống lập tức nhận ra, những kẻ cướp phá đại trướng của chàng đang ở hướng đó.
Trong mắt Quách Tống không dung một hạt cát. Dù cho là dân đãi vàng, chàng cũng muốn những kẻ này phải trả giá đắt.
Về phía đông nam, cách đó hơn mười dặm chính là Hắc Sơn. Núi Hắc Sơn không cao, nơi cao nhất cũng chỉ trăm trượng, rộng chừng hai dặm, kéo dài hơn bốn mươi dặm từ tây sang đông. Trong núi rừng cây rậm rạp, khe rãnh chằng chịt, là một nơi săn bắn lý tưởng.
Quách Tống lập tức nấp mình sau một cây đại thụ. Trên cánh đồng tuyết trắng ngần, chàng nhìn thấy mười người áo đen cách đó vài dặm, đang cưỡi ngựa đi lên núi.
Những người áo đen này khiến Quách Tống chợt nhớ đến bọn mã phỉ ba năm trước. Có thể không phải chính mười mấy kẻ đó, nhưng một cảm giác mãnh liệt mách bảo chàng, e rằng đây chính là oan gia ngõ hẹp.
Lo lắng Mãnh Tử có thể bị lạc, chàng huýt sáo. Người cách đó vài dặm không thể nghe thấy, nhưng đại bàng thì có. Mãnh Tử lượn một vòng rồi bay đi.
Trời đã tối hẳn, tuyết cuối cùng cũng ngừng rơi. Nhưng bầu trời vẫn u ám. Sâu trong thung lũng một ngọn núi thuộc Hắc Sơn, một đống lửa đang cháy bừng. Mười người áo đen ngồi vây quanh đống lửa uống rượu, trên lửa nướng một con hoẵng cùng vài con chim tùng kê.
"Không ngờ hôm nay vận khí không tệ, lại vớ được rượu sữa ngựa. Tiếc là trong lều chẳng có đàn bà, thật đáng tiếc quá!"
"Thằng khốn nhà ngươi đừng có cả ngày tơ tưởng gái gú! Bài học ba năm trước vẫn chưa đủ sao? Cởi truồng bỏ chạy, làm mất hết mặt mũi dũng sĩ Sa Đà!"
Thủ lĩnh răn dạy một trận, tên Sa Đà kia lập tức im bặt.
Hắn nhìn quanh một lượt mọi người rồi nói: "Chiếc đại trướng chúng ta gặp hôm nay hẳn là của dân du mục bộ lạc Hắc Sơn để lại canh giữ nông trại. Tung tích của chúng ta đã bại lộ rồi, không thể để lại người sống. Sáng sớm mai, đi giết hắn!"
Ngay trên một cây đại thụ phía trên khe núi, Quách Tống từ từ siết chặt kiếm trong tay. Chính là đám mã phỉ ba năm trước đây... Không! Là thám tử quân Sa Đà!
Đối phương nói bằng tiếng Thiết Lặc phổ biến trên thảo nguyên. Nhiều người Khương cũng biết ngôn ngữ này, Quách Tống cũng học được không ít nên phần lớn đều có thể nghe hiểu. Chỉ là trong lòng chàng có chút kỳ lạ: Sắp tới sẽ có tuyết lớn phong tỏa đường xá, những thám tử quân Sa Đà này xuất hiện ở hồ Hưu Đồ để làm gì? Chẳng lẽ là vì Đường quân?
Trừ quân Đường ở Bạch Đình Thủ Tróc ra, chàng thật sự không nghĩ ra lý do nào khác.
Chàng lại ngưng thần tiếp tục lắng nghe. Tuyệt phẩm này, từng câu từng chữ đã được truyen.free tận tâm chuyển ngữ, độc quyền trao đến quý độc giả.