Chapter 7: Sáu Vị Thần
Nghe tôi nói vậy, Oliver hơi nhướng mày rồi khẽ gật đầu, nụ cười trên mặt vẫn không đổi.
“Tất nhiên rồi, cô muốn biết điều gì?”
“Tôi muốn biết tất cả.”
Tôi nói. “Nếu có thể, hãy bắt đầu từ Huyết Nguyệt. Thật ra, tôi đã gặp một Người Chăn Cừu tối qua, cô ta có vẻ là tín đồ của Tri Thức.”
Nghe vậy, lông mày Oliver hơi nhíu lại, sau đó ông hỏi. “Cô gặp nguy hiểm à?”
Tôi khẽ gật đầu. “Nhưng cuối cùng tôi vẫn đánh bại được cô ta, chỉ là… sáng nay khi tỉnh dậy, tôi phát hiện hình như mình đã quên mất vài thứ.”
“Quên mất vài thứ?”
“Ví dụ như những kiến thức thường thức về các vị thần.”
Tôi nói dối mà không đổi sắc mặt.
“Ra vậy…”
Tư thế của Oliver trở nên nghiêm túc hơn, dường như ông không nhìn thấu lời nói dối của cô gái, hoặc có lẽ tình trạng này vốn không hiếm gặp.
“Đám điên cuồng theo đuổi tri thức quả thực rất giỏi dùng những loại huyền thuật như vậy và đó cũng là lý do khiến bọn chúng đáng ghét nhất.”
Giám mục đứng dậy, đi đến kệ sách, lấy ra một cuốn sách dày rồi đặt lên bàn, mở trang đầu tiên.
“Vậy, xin cho phép tôi kể lại cho cô một lần nữa.” Nói đến đây, Oliver bỗng bật cười.
“Có chuyện gì sao?”
Tôi khó hiểu hỏi.
“Không, xin thứ lỗi vì tôi thất lễ.”
Oliver lắc đầu. “Giới thiệu về Huyết Nguyệt vĩ đại cho một Người Chăn Cừu của chính Huyết Nguyệt, chuyện này trước đây tôi chưa từng nghĩ tới.”
Dừng lại một chút, Oliver tiếp tục. “Đầu tiên, tôi muốn giới thiệu về sự vĩ đại của Huyết Nguyệt.”
Tiếng cười nhẹ của ông đánh thức mực đen đang ngủ, những trang sách tự động lật, dừng lại ở bức minh họa một bánh xe mặt trăng đỏ thẫm.
Vô số bóng đen nhỏ li ti bơi trên mặt giấy như một bầy dơi bị ánh trăng làm kinh động.
“Ngài là Chúa Tể của Hiến Tế và Săn Bắt, là hiện thân của ham muốn, cai quản vòng tuần hoàn vĩnh hằng của sinh và tử.”
Khi nhắc đến Huyết Nguyệt, giọng Oliver tràn ngập sùng kính.
“Sức mạnh của Ngài biểu hiện qua từng pha trăng và mỗi kỳ trăng tròn là lúc quyền năng của Ngài đạt đỉnh cao. Vào thời điểm đó, mọi sinh vật được ánh trăng soi chiếu đều sẽ phơi bày bản chất nguyên sơ nhất của mình, và chúng ta, với tư cách là tín đồ của Ngài, sẽ hoàn thành nghi lễ hiến tế.”
Đầu ngón tay ông lướt theo đường sáng lởm chởm ven bánh xe mặt trăng.
“Khi Huyết Nguyệt thống trị màn thiên không, ngay cả bia mộ cũng sẽ rỉ ra mật ngọt của dục vọng. Tại bàn tế trăng tròn, chúng ta móc trái tim còn đang đập của con hươu đực, không phải để dâng hiến, mà là để mời gọi. Mời đón Đấng giữ vũ điệu sinh tử muôn đời, đến thưởng thức bữa tiệc đang sôi sục.”
Bánh xe mặt trăng trong bức vẽ bỗng rịn ra những giọt sương và tôi ngửi thấy một mùi tanh nồng của máu.
Các mạch máu nơi cổ tay tôi bắt đầu cộng hưởng với ánh trăng như những chuỗi hạt mã não lơ lửng trong không trung bởi tơ nhện.
Nói xong, ông lật nhanh qua vài chục trang, chuyển đến chương kế tiếp, chỉ vào một bức minh họa khác, một cuốn sách vô tận.
Cùng lúc đó, sự sùng kính trong giọng Oliver biến mất theo từng trang sách bị lật, thay vào đó là sự khinh miệt và căm hờn.
“Và đối lập với Huyết Nguyệt vĩ đại, chính là Tri Thức, tín đồ của Ngài gọi Ngài là người bảo hộ trí tuệ, kẻ tiết lộ chân lý. Như cô đã gặp rồi đó, tín đồ của Tri Thức luôn ám ảnh việc thu thập và đánh cắp tri thức, và khi truy cầu chân lý, họ thường rơi vào điên loạn. Vì vậy, Ngài ta còn một danh hiệu đáng kính khác là ‘Kẻ Gieo Rắc Điên Cuồng’. Còn các Tông đồ của Tri Thức…”
Lực Oliver dùng để lật trang bỗng mạnh hơn, tấm da dê phát ra tiếng rên rỉ như một con chim sắp chết.
Cuốn sách vô tận trong bức vẽ đang rỉ ra thứ chất giống hắc ín và biểu tượng con mắt mở ra trên bìa sách khiến thái dương tôi giật nhói.
“Cách chúng gặm nhấm bí mật chẳng khác nào dòi bọ đẻ trứng trong hộp sọ của một vị thánh.”
Một sắc vàng óng của kẻ săn mồi thoáng hiện trong đáy mắt Oliver.
“Những kẻ tự xưng là tín đồ chân lý có thể nhai rỗng cột trụ ký ức trong cung điện tâm trí của cô. Nhưng cô nên mừng là mình gặp một Người Chăn Cừu chứ không phải một Người Ghi Chép, bọn họ có thể moi ra thậm chí hình dạng nốt ruồi lúc cô mới sinh từ trong hư vô.”
“Tại sao Huyết Nguyệt và Tri Thức lại đối lập nhau?”
Tôi bối rối hỏi.
“Bởi vì cân bằng của thế giới này được xây dựng trên nền tảng sự chế ước lẫn nhau giữa sáu vị thần.”
Giọng Oliver mang theo một nét trang nghiêm.
“Huyết Nguyệt đại diện cho bản năng, còn Tri Thức đại diện cho lý trí và lý trí kiềm chế bản năng. Nhưng những viên ngọc trên vương miện của Tri Thức cuối cùng sẽ biến dạng thành những khối u.”
Giọng Oliver bỗng chìm vào một nhịp điệu cuồng nhiệt nào đó, các trang sách dừng lại trước một đồ hình tròn đan xen vô số bộ phận sinh học.
Tôi thấy con rắn trong minh họa đang nuốt lấy đuôi mình và tại nơi vảy nó rơi xuống, những chiếc lông công và vảy cánh của loài bướm mở nở như hoa.
“Dị Hóa?”
Tôi không hiểu. “Dị Hóa cũng là một chân thần sao?”
“Tất nhiên rồi, mỗi vị thần đều có ý nghĩa và giá trị tồn tại riêng.”
Oliver mỉm cười, ngón tay chạm vào hoa văn vòng tròn xoắn vặn trên trang giấy.
“Dị Hóa là bậc thầy của biến dị và tái sinh, dưới ánh nhìn của Ngài, mọi sinh mệnh sẽ đón chào hoán đổi. Có kẻ gọi Ngài là kẻ dệt gen, có kẻ gọi Ngài là kẻ tạo ra quái vật. Khi cây đàn của Thần Dị Hóa cất tiếng, ngay cả thời gian cũng sẽ lột đi lớp da của chính nó.”
Khi nhắc đến Dị Hóa, giọng Oliver lại trở nên cung kính.
“Thật ra, Dị Hóa không chỉ là xấu xí hay đáng sợ, điều Ngài đại diện là vô hạn khả năng của các hình thái sống. Giống như quá trình lột xác của bướm khi chui ra khỏi kén: vừa là hủy diệt, vừa là tái sinh.”
Vừa nói, Oliver đứng dậy, chậm rãi bước đến bên cửa sổ.
“Các tín đồ của Dị Hóa tin rằng chỉ thông qua biến dị và tái cấu trúc không ngừng, sự sống mới có thể đạt đến cảnh giới cao hơn. Họ theo đuổi hình thái hoàn mỹ, dù sự theo đuổi ấy trong mắt người thường có vẻ điên rồ và đáng sợ. Tín đồ của Ngài nuôi dưỡng hàng vạn khả thể, mỗi nhịp tim lại sản sinh ra một loài mới. Từng có một nhà giả kim tự biến mình thành một nhà kính biết đi; khi lính gác rạch lớp da lục bảo của hắn, những đôi cánh bướm morpho xanh bay ra, trên mỗi cánh đều in gương mặt mối tình đầu của hắn.”
Ngừng lại một lúc, Oliver nói tiếp.
“Và sự truy cầu điên cuồng đối với biến dạng hình thể này cuối cùng sẽ bị Hư Vô kiềm chế. Bởi chỉ trong khe nứt giữa hiện thực và hư không, một cuộc lột xác vượt ngoài lẽ thường mới thật sự có thể thành hình.”
Ánh sáng từ bên ngoài chiếu qua ô cửa kính màu, rải những mảng sáng rực rỡ xuống căn phòng. Tôi cúi đầu nhìn những hoa văn ánh sáng lộng lẫy ấy, ngẩn ngơ.
“Vậy Hư Vô là dạng tồn tại gì?”
“Hư Vô cai quản không gian, chiều kích và hư không.”
Oliver trở lại chỗ ngồi, lật sang một trang mới, chỉ vào huy hiệu của chiếc gương vỡ.
Ông gõ nhẹ lên minh họa và những mảnh vụn như sao rơi lập tức trào ra từ các khe nứt.
“Ngài là kẻ mở đường cho các mặt phẳng, là kẻ xé rách hiện thực, là kẻ thống trị hư không.”
“Nghe nguy hiểm thật.”
Tôi khẽ nói.
“Có lẽ vậy.” Oliver bật cười.
“Nhưng tín đồ của Ngài có thể dùng quyền năng đó để dịch chuyển nhanh giữa các không gian khác nhau. Ví dụ, họ có thể xé rách không gian trước mặt, bước vào hư vô rồi trở về hiện thực. Tất nhiên, loại chuyện này cũng mang rủi ro cực lớn, bởi trong lĩnh vực của hư vô, các quy tắc của hiện thực không còn hiệu lực. Và sự phá hủy quy tắc ấy sẽ được tăng cường bởi Hỗn Độn.”
“Hỗn Độn?”
Đây là lần thứ hai tôi nghe một từ mang ý miệt thị dùng để chỉ một vị thần.
Oliver lật sang chương tiếp theo, chỉ vào hình vẽ một cuốn sách bị hỏng.
“Hỗn Độn cai quản biến đổi và hỗn loạn, là kẻ hủy diệt lẽ thường, kẻ gieo rắc hỗn mang, nhưng đồng thời cũng là kẻ chủ mưu của biến chuyển. Hỗn Độn khuấy động trong tử cung của Trật Tự như một bào thai đang gặm nhấm nhau thai. Trong lĩnh vực của Ngài, mọi luật lệ đã định đều sẽ bị viết lại.”
“Vậy chẳng phải thế giới này sẽ diệt vong sao?”
Tôi nghiêng đầu hỏi.
“Tất nhiên là không.”
Oliver mỉm cười.
“Mặc dù Hỗn Độn nghe có vẻ hoàn toàn tiêu cực, nhưng sự tồn tại của Ngài lại không thể thiếu trong mọi biến đổi. Ví dụ, những thay đổi xã hội do các cuộc chiến mang lại, hay những cải tiến kỹ thuật do sự phát triển công nghệ thúc đẩy, chẳng hạn như sự xuất hiện của máy dệt và động cơ hơi nước, đều có liên quan đến Hỗn Độn. Khi động cơ hơi nước thở ra hơi thở đầu tiên mang mùi lưu huỳnh, khi lưỡi dao máy chém phải lòng chiếc cổ của giới quý tộc, đó chính là những dòng thư tình dát vàng và điểm hoa mà Hỗn Độn viết nên. Tất nhiên, không thể phủ nhận rằng những gì Hỗn Độn đại diện phần lớn đều là các tình huống tiêu cực. Và chính vì thế, chúng ta cần sự tồn tại của Trật Tự.”
Ông chỉ vào hoa văn cuối cùng, một chiếc cân vĩnh cửu.
“Trật Tự lấy chiếc cân làm huy hiệu, là người bảo hộ của quy tắc, cũng là kẻ duy trì cân bằng. Chính nhờ sự tồn tại của Ngài mà bản thân thế giới mới có thể giữ được ổn định.”
“Vậy tín đồ của Trật Tự đều là người tốt sao?”
“Định nghĩa người tốt hay kẻ xấu rất mơ hồ.”
Oliver lắc đầu. “Phải nói là bạn hay thù. Và đáng tiếc thay, Trật Tự không phải bạn của chúng ta, nhưng cũng không thể xem là kẻ thù không đội trời chung.”
“Tại sao?”
Tôi tiếp tục hỏi. “Trật Tự chẳng phải là điều tốt đẹp sao?”
“Nhưng Trật Tự cũng đại diện cho sự ràng buộc, trong khi Huyết Nguyệt tượng trưng cho tự do và dục vọng. Ngài là khán giả hoàn hảo cho ván cờ giữa các vị thần, nhưng đáng tiếc, lại luôn muốn biến mình thành trọng tài. Vì vậy trong mắt tín đồ của Trật Tự, tín đồ của Huyết Nguyệt là đối tượng cần kiềm chế.”
“Thế mối quan hệ giữa sáu vị thần là gì?”
Đồng tử của cô gái bất chợt co lại như mèo hoang, mối quan hệ của sáu vị thần tự sắp đặt thành một vòng ouroboros trong tâm trí cô.
Nanh của Huyết Nguyệt đâm xuyên cổ của Tri Thức.
Bộ não của Tri Thức mọc ra chồi non của Dị Hóa.
Đôi mắt kép của Dị Hóa dõi vào những khe nứt của Hư Vô.
Những xúc tu của Hư Vô khuấy động lò luyện của Hỗn Độn.
Tàn tro của Hỗn Độn đúc lại những quả cân của Trật Tự.
Và những cây kim bạc của Trật Tự mãi mãi khâu lại các vết thương đang mưng mủ của Huyết Nguyệt.