Menu
Đăng ký
Truyện
← Trước Sau →
Truyen.Free

CHÚ THÍCH

Các chú thích có dấu * là của dịch giả.

[1] Lấy làm vui thích vì thấy người khác bị tai họa

[2] Nhanh như chớp

[3] Núi Mây mù.

[4] Tốt đẹp nhưng chưa hoàn thiện

[5] Tin tức (âm: là tiếng, hao: là tin tức)

[6] Đầu lâu người chết hoặc xác người chết

[7] Lấy ngay thẳng mà báo oán

[8] Lăng Ba Vi Bộ là khinh công độc môn của phái Tiêu Dao. Cái tên Lăng Ba Vi Bộ có nghĩa là “nhẹ nhàng đạp sóng”, lấy từ một câu trong bài “Lạc thần phú” (bài phú về nữ thần sông Lạc) của Tào Thực thời Tam Quốc.

[9] Bằng hữu chó lợn

[10] Quang: vẻ vang; lâm: đến (có ý kính trọng). Quang lâm: sự đến viếng thăm người bề trên làm cho người dưới được vinh hạnh

[11] Dạ Xoa cười

[12] Hoa hồng đen

[13] Gậy chống

[14] Tự xét mình mà thấy ngay thẳng, dù có ngàn vạn con người ta vẫn đi như thường.

[15] Họa không mong mà đến, như có người cột trâu cạnh đường, bị người đi đường dắt mất, người trong ấp lại bị nghi ngờ, đúng là tai bay vạ gió.

[16] Thấy máu là tắt thở

[17] Tạm dịch theo bản tiếng Anh: “Nước trong, hoa thắm, liễu thanh”.

[18] Vùng giữa hai lông mày

[19] Mông không có da, đi sau khập khiễng, lùa dê không hối, nói chẳng ai tin.

[20] Mất ngựa, gặp kẻ ác không lỗi

[21] Cá sấu thần biển Nam

[22] Ra tay trước sẽ chiếm được nhiều lợi thế

[23] Chuyện gì mình không muốn, đừng làm cho người

[24] Ra tay trước sẽ chiếm được nhiều lợi thế, ra tay sau sẽ gặp nhiều trắc trở

[25] Không điều ác nào không làm

[26] * Hai bên cùng bị tổn thương (Các chú thích có dấu * là của dịch giả).

[27] * Trong sách tướng gọi là Trẩm Cốt, là một trong chín xương đầu mà người Trung Hoa coi là có ý nghĩa rất quan trọng. Thần Tướng Toàn Biên viết: “Chỗ kỳ lạ của xương sọ là ở chỗ xương sau đầu thành trẩm. Người có trẩm cốt chẳng khác gì trong đá núi có ngọc, trong sông có châu (ngọc trai)... Xương đằng sau ót sách gọi là Tinh Thai, nếu nổi lên thì gọi là Trẩm Cốt. Người có trẩm cốt rộng thì phú quí, lép hãm thì bần tiện. Trẩm cốt còn gọi là Ngọc Trẩm.” (Xin đọc thêm Những Nguyên Lý của Tướng Học của dịch giả)

[28] Trảo thép (trảo: móng vuốt).

[29] * Đao hình như cái kéo

[30] Đây là thanh đao hai lưỡi như cái kéo, lưỡi dài có răng giống hàm răng cá sấu nên gọi là Ngạc chủy tiễn (Kéo hình hàm cá sấu)

[31] “Nhuyễn” là mềm, “tiên” là roi, dùng chỉ chung cho các loại hình binh khí mềm, uyển chuyển như khăn quàng cổ, dây thắt lưng, dây xích sắt...

[32] Đây là cây roi có răng cưa giống như đuôi cá sấu nên gọi là Ngạc vĩ tiên (Roi đuôi cá sấu)

[33] * Lấy nhàn tản chống lại nhọc mệt, mình đứng yên mà địch chạy đông chạy tây, kế thứ 4 trong 36 kế.

[34] * Vạn loại hoa cỏ tranh nhau vẻ đẹp

[35] Đẩy thuyền theo dòng nước

[36] * Rìu chặt cây

[37] Bút Phán Quan (còn gọi là Bút Trạng Nguyên) là một cây gậy dài, thân thon nhỏ và có đính vòng đeo. Khi sử dụng, người dùng đeo vào ngón tay để xoay tròn. Thoạt nhìn Bút Phán Quan có vẻ ngắn, nhưng thực tế khi giao chiến, bút có cơ quan bí mật, chỉ cần nhấn chốt là có thể thay đổi sang hình dạng dài khiến kẻ thù gặp bất ngờ.

[38] * Phú ca tụng nữ thần sông Lạc. Lạc thần tức là Mật Phi, con gái họ Mật Hi, chết đuối nơi sông Lạc biến thành thần. Theo sách Hán Thư Âm Nghĩa, Tào Thực (Tử Kiến, con trai út của Tào Tháo nổi tiếng bảy bước thành thơ) làm bài Lạc Thần Phú để ca tụng Chân Phi. Sử chép rằng Chân thị vốn là vợ của Viên Hi, con trai Viên Thiệu, khi Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu bắt được Chân thị. Tào Thực xin cha gả cho mình nhưng Tào Tháo lại gả cho Tào Phi (con trưởng). Khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Chân thị được lập làm Hoàng Hậu sinh ra Minh Đế. Năm Hoàng Sơ thứ hai Hậu chết, năm sau Tào Thực về triều đi ngang sông Lạc nhớ đến Chân thị, bỗng thấy Chân thị hiện ra giãi bày tấm lòng mình. Thực vừa mừng vừa buồn nên làm bài Cảm Chân Phú để ghi lại việc hai người gặp gỡ. Về sau Minh Đế đọc được đổi tên thành Lạc Thần Phú (Ngụy Chí Văn Chiêu Chân Hoàng Hậu truyện).

[39] * Trong chương này có rất nhiều thi văn. Người dịch chỉ gượng gạo thoát ý chuyển sang văn vần cho khỏi lạc điệu nguyên tác nhưng chắc chắn kém xa những tác giả chuyên dịch cổ văn. Nếu vị nào kiếm được bản dịch Lạc Thần Phú của một người khác đã dịch làm ơn chuyển lại cho chúng tôi để thay vào thì thật quí hóa. Xin cảm ơn trước. (Nguyễn Duy Chính)

[40] * Con nhái đỏ, nhái tiếng kêu rống như bò

[41] * Manjusri tức Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho trí huệ bát nhã

[42] * Samantabhadra là bồ tát đại diện cho bình đẳng

[43] * Lão tử được các đạo sĩ tôn xưng lên thành một vị tiên

[44] * Thần ôn dịch truyền bệnh

[45] * Nguyên tác dùng câu tục ngữ Trung Hoa, vua không lo, thái giám lại lo tương đương với câu ca dao Việt Nam “Thành đổ đã có vua xây, Việc gì gái góa lo ngày lo đêm”.

[46] * Một vòng tròn từ đầu đi hết rồi vòng trở lại. Nội công có hai vòng, nhỏ là tiểu chu thiên, lớn là đại chu thiên.

[47] * Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long

[48] * Trăm sông đổ vào biển cả

[49] * Cầu tiêu

[50] * Kế cuối cùng trong Tam Thập Lục Kế là “Tẩu Kế”, tức bỏ chạy.

[51] * Bộ là bước đi, Bà là bò dưới đất

[52] * Dù có mất nhưng đừng đuổi theo, bảy ngày sẽ lấy lại được

[53] * Thất tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu bảy chữ (thất ngôn tứ tuyệt) còn ngũ tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu năm chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt)

[54] * Lương chuyên là cột nhà, xà nhà ý nói bề tôi lương đống

[55] * Vô Lượng là tên cả một dãy núi chạy dài từ Tây Tạng xuống tận miền Bắc nước ta chứ không phải chỉ là một ngọn núi mà thôi

[56] * Ngụy Trưng, tự Huyền Thành (580-643) một danh thần đời Đường, hình mạo xấu xí nhưng rất trung liệt, khẳng khái làm quan tới chức Trịnh Quốc Công

[57] * Thông hiểu hết mọi sách vở

[58] * Chùa, đền dành riêng cho đạo sĩ

[59] * Nhất tiễn song điêu

[60] * Hồng phi minh minh

[61] * Mặt hình chữ “quốc” (国): Mặt vuông vắn nhưng hơi dài hơn mặt chữ điền

[62] * Cây cột đá chống đỡ đất nước

[63] * Chính tay nhà vua viết năm Đinh Mão

[64] * Cũng như vua nước ta thời ấy trên danh nghĩa nhà Tống chỉ phong làm Giao Chỉ quận vương, Nam bình vương nhưng tự mình thì vẫn xưng là Hoàng Đế ngang với vua Tàu.

[65] * Quẻ Ích, trên là tốn (gió), dưới là chấn (sấm). Người quân tử thấy điều thiện thì gắng mà làm theo, có điều sai lầm thì sửa đổi

[66] * Giảm ở trên, tăng cho dưới mọi người đều vui vẻ vô hạn. Lấy bên trên làm lợi cho bên dưới thì đạo nghĩa đó càng thêm rực rỡ (Thoán truyện quẻ Ích)

[67] * Cá chép quẫy mình

[68] * Xét bản thân nên tiến hay lùi (Quán). Tĩnh như cái lưng không thấy thân mình cũng quên cả người (Cấn). Tai vạc đương thay chưa cất vạc lên được (Đỉnh). Hễ tiến tới thì không lợi (Bác). Dê đực húc vào dậu, mắc kẹt lui không được, tiến không xong (Đại Tráng). Đây là lời trong kinh Dịch.

[69] Thuật lại chứ không sáng tác

[70] Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy phải theo

[71] Ngàn lần theo trăm lần thuận

[72] Đi một bước, lạy một lạy

[73] Từ xa giải huyệt

[74] Không giận mà oai

[75] Gió sớm mai thổi liễu

[76] Cảnh cùng cực, bế tắc

[77] Phủ (Búa – Rìu): vũ khí gần giống với rìu chặt cây. Phủ thường có cán ngắn nên xỏ vào thắt lưng rất tiện, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ.

[78] * Chim phượng làm tổ trên cây ngô đồng

[79] * Lời chú của Kim Dung: Mãi về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và Ngư Tiều Canh Độc bốn đại đệ tử (xem Xạ Điêu Anh Hùng truyện)

[80] * Cửu: chín, ngũ: năm. Quẻ càn (Kinh Dịch): “Cửu ngũ long phi tại thiên, lợi kiến đại nhân” (Cửu ngũ rồng bay lên trời, lợi thấy đại nhân). Quẻ càn tượng trưng Vua nên sau dùng chữ ngôi cửu ngũ để chỉ ngôi Vua.

[81] * Hoàng Thái Đệ là người em nhưng được thừa kế ngôi vua. Trong sử quả có chép Bảo Định hoàng đế tại vị 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho em là Đoàn Chính Thuần tức là Trung Tông hoàng đế. Trung Tông làm vua 12 năm rồi cũng đi tu. Nước ta vào thời kỳ này cũng có nhiều vị hoàng đế bỏ ngôi vào chùa tu, nhất là đời Trần các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều trở thành những cao tăng thâm hiểu Phật pháp.

[82] * Theo quan chế ngày xưa Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã gọi là Tam Công. Tư Không coi về việc đất đai, lãnh thổ tức thượng thư Bộ Công. Tư Đồ trông coi về nhân dân, hành chánh nên còn gọi là Tướng Quốc (sau gọi là Thừa Tướng). Tư Mã coi về quân sự, binh bị sau gọi là thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra còn một chức vụ nữa là Tư Khấu trông coi việc pháp luật (thượng thư Bộ Hình). Nếu đúng nguyên tắc thì việc công bố lệnh bãi bỏ thuế muối phải do quan Tư Đồ đảm trách mới phải.

[83] * Đây là cờ vây chứ không phải cờ tướng

[84] * Bàng quan bất ngữ chân quân tử, Tự tác chủ trương đại trượng phu.

[85] * Giữ cho tâm thanh tịnh quên hết cả ta lẫn vật

[86] * Tri sỉ cận hồ dũng

[87] Mất hết, không còn gì

[88] * Trong thủ tục hôn lễ ngày xưa, khi hai bên đã bằng lòng nhau thường trao đổi ngày sinh tháng đẻ để so tuổi xem có hợp hay không (lễ vấn danh)

[89] * Chử là cái chày nhưng trong đạo Phật thì là một loại pháp khí (sceptre). Vi Đà là dịch âm chữ Vajra nguyên nghĩa là sấm sét hoặc kim cương (tùy theo người định nghĩa) cho nên Vi Đà Chử còn gọi là Kim Cương Chử là một pháp khí dùng để hàng phục ma chướng. Trong hình tượng tôn giáo Ấn Độ, cái chày là biểu tượng của dương (kim cương bất hoại), cái chuông là biểu tượng âm (trí huệ bát nhã). Chày này có khi một đầu hoặc hai đầu, chia làm hai nhánh, ba nhánh, năm nhánh hay chín nhánh. Cho đến nay người ta vẫn chưa biết nguồn gốc hai pháp khí này từ đâu nhưng rất thông dụng trong những món binh khí đạo Bà La Môn. Việc thờ cúng âm vật dương vật cũng xuất hiện tại nhiều vùng ở miền Bắc nước ta, rất có thể do ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Kim Dung mượn nhiều pháp khí Phật giáo làm binh khí cho những nhân vật của ông (nhất là các nhà sư) nhưng dĩ nhiên chỉ là biểu tượng vì thực tế những pháp khí này khó có thể dùng làm khí giới.

[90] “Lấy đạo của người trả lại cho người”: Đây là câu nói gắn liền với họ Mộ Dung. Nguyễn Duy Chính dịch thành: “Hễ ai có tài nghệ gì, Ta đem trả ngược lại về cho ngươi”; Đông Hải dịch thành: “Gậy ông đập lưng ông”.

[91] * Đầu vỡ thành nghìn mảnh

[92] * Trong y khoa quả có những trường hợp trái tim không nằm ở bên trái mà ở bên phải, có khi ở bụng (displacements of the heart)

[93] Con chim đã một lần trúng tên thì nhìn thấy cây cung là sợ hãi

[94] * Ở đây Kim Dung chơi chữ theo lối tá âm của Trung Hoa. Tiếng Tàu một âm viết có thể theo nhiều cách, nhiều nghĩa. Theo đúng chữ là “em gái con rùa đến vua Võ” vì chữ qui (rùa) và qui (về) đồng âm nên qui muội (em gái con rùa) với Qui Muội (tên quẻ) âm giống nhau, Võ Vương với Vô Vọng âm tương tự. Thành thử Thôi Bách Tuyền là một người dốt nát nghe hai quẻ Dịch lại hiểu theo một nghĩa khác ngây ngô.

[95] * Abacus

[96] “Chuyện ấy không thể xem như không có”: Câu này trong bản text của vnthuquan bị gõ thiếu. Bản dịch Đông Hải không có câu này. Người làm ebook dựa vào bản tiếng Anh dịch bổ sung.

[97] Thần kiếm của sáu kinh mạch

[98] Tu quay mặt vào tường

[99] Dẫn khí về nơi trống rỗng

[100] Uống rượu độc cho hết khát. Nghĩa bóng chỉ việc giải quyết khó khăn trước mắt mà không nghĩ tới hậu hoạn.

[101] Bách tuế: trăm năm

[102] Ngô công là cơ thể phơi khô của con rết. Ngô công bách cước: con rết trăm chân.

[103] Cháo và bánh bao

[104] Điền là tên thường gọi của Vân Nam

[105] Phép dùng gậy đập chó

[106] Mười tám cách bắt rồng

[107] Mối lái cưới xin đàng hoàng

[108] Đôi mắt đưa tình

[109] Ngừng ở cái lưng (tĩnh như cái lưng) không thấy được thân mình, đi ở trước sân, không thấy có người, không có lỗi. Hễ tĩnh thì không nghĩ tới mình, mà cũng quên cả người khác (như đi ở trước sân mà không thấy có người), tức là không phân biệt mình với người, như vậy thì không có lỗi.

[110] Mông nát vì đòn gậy, bị giam vào ngục tối, ba năm chưa được thả.

[111] Công Tôn Át, tự là Tử Đô, một viên tiểu tướng đẹp trai nhất ở thời Đông Chu mà Trịnh Trang công rất yêu vì.

[112] Cành hoa lê lóng lánh mưa xuân

[113] Nói cười duyên dáng, hòa nhã dễ thương

[114] Cô danh điếu dự: mua danh chuốc tiếng. Ý nói cố tìm tiếng tăm bằng cách không chính đáng

[115] Theo thầy khi đã có tài nghệ

[116] Kẽ giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ.

[117] Lưỡng bại câu thương: Cùng bị tổn thương. Đồng quy ư tận: Cùng vào chỗ chết.

[118] Mất hồn mất vía

[119] Chỉ truyền cho con cháu, không truyền cho đồ đệ

[120] Tim đập thình thịch, hơi thở dồn dập

[121] Chí nhân, chí nghĩa. Chỉ tận tình, tận nghĩa.

[122] Rượu nồng (liệt: đậm, nồng)

[123] Uống rượu mà gặp bạn hiểu mình thì ngàn chén cũng còn ít.

[124] Ruộng đất hạng tốt nhất. Ruộng nhất đẳng.

[125] Trong Binh thư của Tôn Tử, “xa luân chiến” là phương pháp sử dụng 2 cánh quân xa thay nhau tấn công làm đối thủ xoay xở không kịp.

[126] Ít người không thể chống lại số đông.

[127] Không cùng đội trời. Chỉ mối hận thù rất lớn.

[128] Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý: Tấn công nơi không phòng bị, đến nơi không ngờ tới

[129] * “Đại” đây là “cái túi”, không phải “đời”. Đệ tử ngũ đại: đệ tử năm túi (số túi thể hiện cấp bậc trong Cái Bang).

[130] * Chỗ này chơi chữ cũng rất hay. Thân là họ hàng bên nội, thích là họ hàng bên ngoại. Quyến thuộc là người trong cùng một gia đình. Đoàn Dự nói thế để minh định là Vương Ngữ Yên và Mộ Dung Phục chỉ là họ hàng chứ chưa phải là người nhà với nhau (nghĩa là anh chàng vẫn còn tí ti hi vọng).

[131] * Càn (hay Kiền) và Can viết cùng một mặt chữ, đọc khác nhau. Càn trong chữ “Càn khôn”. Can trong “Can bôi” là cạn chén. Nếu giải thích như vậy thì người này phải đọc là Công Dã Can chứ không phải Công Dã Càn như bản cũ.

[132] * Ở miền quê nước ta cầu bắc ngang sông rạch bằng một thân cây gọi là cầu khỉ

[133] * Vật cùng loại thì tụ với nhau, người cùng bọn thì tính giống nhau.

[134] Lời đồn đại. Lời nói vô bằng cứ.

[135] “Kiều Phong cầm ... quát lớn”: Đoạn này bản text của vnthuquan gõ thiếu. Người làm ebook lấy đoạn tương ứng của bản dịch Đông Hải.

[136] * Vợ chồng, tiếng dùng văn vẻ

[137] * Đầu tóc bạc trắng như lông hạc, nhan sắc hồng hào như nhi đồng; Tóc đã bạc nhưng mặt mũi còn trẻ

[138] * Thiết Diện là mặt sắt, Thiết Thí Cổ là đít sắt

[139] * Vị vong nhân là người chưa chết, ý nói đáng lẽ phải tuẫn tiết theo chồng nay có sống cũng là thừa. Chữ dùng khiêm cung kiểu cách của người đời xưa.

[140] * Đơn là một, Song là hai. Chính là thẳng, Oai là cong vậy.

[141] * Người Tàu có một bài tứ tự dài gọi là Bách Gia Tính (trăm họ) ghi lại những họ thông dụng nhất ở Trung Hoa mở đầu bằng Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương... Lấy tên là Triệu Tiền Tôn cũng không khác gì người mình bảo tên tôi là Nguyễn Lê Trần, không phải tên thật.

[142] Quân tử yêu người có đức

[143] * Đoạn đầu trong Bách Gia Tính

[144] Nói lên và nghe theo. Chỉ vợ chồng hoà thuận. Thường nói “Phu xướng phụ tuỳ” (chồng nói vợ theo).

[145] * Hoàng Đế (Yellow Emperor) theo truyền thuyết là một trong những vì vua thủy tổ của người Trung Hoa.

[146] * Hiện nay ở Sơn Tây cách huyện Đại ba mươi dặm về hướng Tây Bắc. Thời Đường cửa ải này ở trên đỉnh núi cao, tới thời Nguyên thì phế bỏ. Qua đời Minh mới dời xuống thung lũng giữa hai ngọn núi và tồn tại cho tới ngày nay.

[147] Hồn không nương vào xác, ý nói rất sợ hãi, sợ hết hồn.

[148] * Tấm lòng thương xót ai ai cũng có cả

[149] * Sơ xuất mao lô, ý nói vừa mới bước vào đời, dùng theo điển trong Tam Quốc: Khổng Minh ra khỏi lều tranh để giúp Lưu Bị.

[150] Nuôi hổ lớn lên sẽ để lại tai họa về sau.

[151] * Chữ lót nhà họ Đơn đặt theo lối cổ Mạnh Trọng Thúc Quí Tiểu (xin xem thêm “Người Trung Hoa đặt tên thế nào?” của Nguyễn Duy Chính)

[152] Đổi dữ ra lành

[153] * “Đại Tống Nguyên Phong năm thứ sáu, tháng năm, mồng bảy.” Theo Tây lịch thì là năm 1083, Kiều Phong đã làm bang chủ được 8 năm vậy hiện thời là năm 1091 hay 1092 (Nguyên Tá thứ 6)

[154] Nhiều người cùng một lời như nhau

[155] * Hệ Từ Thượng, Dịch Kinh: “Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm” có tiền của mà không giấu cho kỹ thì sẽ dễ dẫn dụ đạo tặc vào, có nhan sắc mà phô ra cho người ta thấy có khác gì dụ người ta vào chuyện dâm ô.

[156] * Người vợ góa, chữ văn vẻ

[157] * Tên một nước ở Tây Vực đời Hán, sau đổi thành Thiện Thiện nay thuộc Tân Cương đã chìm vào trong sa mạc.

[158] Tráng sĩ ra biên tái giết giặc

[159] * Núi biếc kia còn đó, Sông xanh vẫn chảy hoài.

[160] * Anh em kết nghĩa

[161] * Vua Tần dùng roi đánh vào tảng đá

[162] Đại bằng dang cánh

[163] * Bi là buồn bã, tô là mềm nhũn

[164] (Phương ngữ) trú mưa

[165] * Đây là một cơ quan dùng sức nước làm quay một bánh xe thật lớn vận chuyển chiếc chày lên xuống tự động giã gạo hay xay lúa (noria). Miền Trung nước ta, người ta cũng áp dụng nguyên tắc này để tát nước vào ruộng.

[166] * Tích rút trong “Hán Sở tranh hùng”, Lưu Bang cùng các chư hầu vây khốn Hạng Vũ.

[167] * Hạng Vũ bị vây, Trương Lương sai người hát tiếng Sở khiến quân lính nhớ nhà bỏ trốn, ở đây Đoàn Dự muốn nói mình đã vào bước đường cùng

[168] Làm những cái mà lòng mình muốn làm

[169] Quân tử thà chết không chịu nhục

[170] * Phiêu hành tự tại, hữu như ngự phong

[171] Nói chuyện yêu đương

[172] * Tài nghệ của con lừa ở đất Kiềm chỉ tới bấy nhiêu: đoản văn của Liễu Tông Nguyên kể chuyện con hổ lần đầu trông thấy con lừa sợ lắm nhưng dần dà chỉ thấy con lừa biết mỗi một cách đá hậu nên nhảy vào ăn thịt, ý chỉ tài nghệ quanh đi quẩn lại chỉ có thế mà thôi

[173] Trong cương có nhu

[174] * Tiệm bán cá khô (Luận Ngữ). Chúng tôi để nguyên văn cho hợp với giọng một anh đồ gàn hay nói chữ.

[175] Lấy độc trị độc

[176] * Một lần đã quá, lẽ đâu còn tái phạm (Tả Truyện)

[177] Thập tử nhất sinh, đại nạn không chết.

[178] Chuyển bại thành thắng

[179] Nước rút đá lộ. Chỉ chân tướng cuối cùng cũng lộ ra.

[180] Trùng hợp ngẫu nhiên

[181] Giữ riêng cho bản thân mình được tốt; chỉ lo một mình mình tốt

[182] Một giấc mộng như vậy

[183] Anh hùng nào thấy tấm thiếp này thì xin mời đến

[184] * Lão bản là ông chủ tiệm, tiếng gọi giới thương nhân

[185] * Một Bản Tiền có nghĩa là Nghề Không Vốn

[186] * “Kiều Phong lại thăm”, tiếng khiêm tốn văn vẻ

[187] * Trèo tường, nhảy lên mái nhà

[188] * “Du Ký, Du Câu trình bày thêm, Tiết Mộ Hoa tiên sinh được người đời gọi là Tiết Thần Y.”

[189] * Vì việc đại nghĩa thì đến thân nhân mình cũng phải diệt

[190] * Ỷ tài không sợ gì cả

[191] Không việc ác nào không làm, người lẫn quỷ thần đều căm giận

[192] * A là tiếng gọi, không kính trọng lắm để chỉ một người bình dân, địa vị thấp kém. Những cô gái trong nhà Mộ Dung có tên Châu (đỏ gạch, tức Chu), Bích (xanh biếc) rồi sau này có thêm Tử (tím đỏ) đều gọi tên theo màu áo mặc.

[193] Bị mắc kẹt trong vòng vây của địch

[194] Thuật nói bằng bụng

[195] * Cẩu hùng là con gấu, cố ý nói trại anh hùng yến thành cẩu hùng hội.

[196] * Đầy tớ tiếp khách trong trang viện

[197] Bạn bè đã thành cừu địch

[198] * Gửi gắm con côi, tích vua Thục Lưu Bị trước khi chết gửi con là Lưu Thiện cho thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng trông coi (Tam Quốc diễn nghĩa)

[199] * Cả càn khôn (trời đất) đều nằm trong tay áo

[200] * Tụ là tay áo như trong chữ lãnh tụ (lãnh: cổ áo, tụ: tay áo) là hai bộ phận đi đầu tiên khi mặc áo nên có nghĩa là dẫn đầu. Trong truyện thỉnh thoảng chúng tôi để nguyên những từ tụ lực (sức từ trong tay áo), tụ phong (gió từ trong tay áo) để khỏi lập đi lập lại

[201] Đi sau nhưng về trước

[202] * Cho xem mặt, lời văn vẻ, nhưng cũng có nghĩa ông là ai?

[203] * Chim nhạn tức là loài ngỗng trời (wild goose) đến mùa đông thiên di về phương nam, mùa xuân lại bay trở về phương bắc không phải chim nhạn theo người mình vẫn hiểu là loài chim én nhỏ.

[204] * Sau trận đánh, Tụ Hiền Trang đúng ra phải có những biến cố đặc biệt vì cả hai trang chủ đều chết, cùng vô số những nhân vật giang hồ. Những sự kiện đó không thấy tác giả Kim Dung đề cập tới (NDC)

[205] * Thời kỳ này bên mình cũng có tục vẽ mình gọi là văn thân

[206] * Là một triều đại rất ngắn (951-960) cai trị chỉ một vùng đồng thời với nhiều nước nhỏ khác

[207] * Đương niên lang tòng kiều thượng quá, Muội tại kiều bạn tẩy y sam...

[208] * Đúng nghĩa là gập đầu gối, nay có nhiều người hiểu sai là có điều cần giấu diếm

[209] * Một tông phái Phật giáo Trung Quốc dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa và phép tu thiền Chỉ Quán bao gồm chú tâm coi mọi pháp đều là không nhưng mọi pháp đều có một dạng tồn tại tạm thời, giả tướng và có chức năng nhất định.

[210] * Ơn huệ để lại (dùng trong văn chương)

[211] * Vạn vật nhất bàn, Chúng sinh bình đẳng. Thánh hiền súc sinh, Nhất thị đồng nhân. Hán nhân Khất Đan, Diệc huyễn diệc chân. Ân oán vinh nhục, Câu tại khôi trần.

[212] * Vì việc nghĩa không thể ngồi yên

[213] * Nếu việc xảy ra ba mươi năm trước, theo chính sử thì Bảo Định Đế lúc đó chưa lên ngôi mà thời kỳ đó là đời vua Hiếu Đức Đoàn Tư Liêm (Bảo Định Đế làm vua 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho Trung Tông).

[214] Hồ Gương Nhỏ

[215] Thù sâu như biển

[216] Từ chỗ là khách biến thành vai chủ, lấn dần dần đất của địch để khiến địch không còn chỗ đứng

[217] Nâng vật nặng như nâng vật nhẹ

[218] Anh hùng khó qua ải mỹ nhân

[219] Tình nhi nữ làm anh hùng nản chí

[220] * Hai bài thơ, một vần trúc, một vần tinh là tên của Nguyễn Tinh Trúc.

[221] Ưng, chịu

[222] Mộ của mãng phu Khất Đan Tiêu Phong

[223] Mộ của Đoàn phu nhân họ Tiêu

[224] * Đến chơi nhà Trúc muội viết để cho tường đỡ trống. Có người mắt sáng lưng eo làm bạn nên không còn biết gì đến trời đất tháng ngày. Đoàn nhị nước Đại Lý viết bừa sau cơn say.

[225] Mộ của A Châu

[226] Gặp dữ hóa lành, gặp tai nạn trở thành tốt đẹp

[227] * Uông uông nhãn lệ theo sách tướng là gái đa tình, tình duyên trắc trở.

[228] Hôm nay có rượu ta say đã

[229] Mẫu đơn hoa hạ tử, tố quỷ dã phong lưu

[230] Kéo dài, trì

[231] Giả thần giả quỷ (gạt người)

[232] Mạnh mẽ, thuần dương, không sử dụng những thủ đoạn âm nhu

[233] “Thanh xuất ư lam nhi thanh ư lam”: Màu xanh lấy ra từ màu lam mà xanh hơn màu lam

[234] Có nhìn mà không thấy

[235] Tỉ phu: chồng của chị.

[236] Sái quấy: lầm lạc, bậy bạ

[237] “Lửa trong lò toàn màu xanh”. Người luyện đan cần tay nghề rất cao mới có để chỉnh lửa thành màu xanh. Tả những kẻ có kỹ thuật cực kỳ điêu luyện trong một lĩnh vực nào đó.

[238] Điều động binh lực

[239] Nhìn xa muôn dặm

[240] Hái sao trên trời

[241] Cưỡng ép ăn ở trước rồi mới cưới hỏi sau

[242] Cờ phất làm hiệu chiến thắng, ngựa quay về báo tin thành công

[243] Nhân sâm núi thường mọc ở sườn núi, có phẩm chất tốt nhất trong các loại nhân sâm, “bổ của các loại bổ”, giá rất cao. Nhân sâm càng mọc hoang lâu năm (lão) càng quý.

[244] * Khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm

[245] Vỡ đá tan bia

[246] * Tức Mãn Châu sau này

[247] * Mũi lao (javelin)

[248] Mượn sức đánh sức

[249] * Sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.

[250] * Lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải bao nhiêu ngựa xe mới đủ.

[251] * Con vật còn sống

[252] Như “xuất quỷ nhập thần”, biến hóa khôn lường

[253] * Trướng của nhà vua (xem ở dưới)

[254] * Quân đi dò thám, tiền sát viên

[255] * Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang theo 10 vạn quân là điều khó tin.

[256] * Ỷ mình không kiêng nể gì cả

[257] * Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả, Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên biểu – tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)

[258] * Tức Bắc Kinh ngày nay

[259] * Củng Thần là tinh tú chầu về, ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở giữa, các ngôi sao đều chạy theo.

[260] * Tức con chương, một loại hươu nhưng nhỏ hơn (moschus chinloo)

[261] * Khổng tử nói: “Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao?” (Luận Ngữ)

[262] * Tickling

[263] Hành động hung ác tàn nhẫn, gây tổn hại đến thiên đạo luân lý (Thương: làm tổn thương. Hại: làm tổn hại)

[264] * Gọi một tiếng trăm người dạ

[265] * Thị tử như qui

[266] * Quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm, phần y phục của Nguyễn Duy Chính)

[267] * Tức Yoga

[268] * Python (con trăn)

[269] “Chùa Mẫn Trung xây dựng theo sắc chỉ nhà vua”

[270] Tình trạng cấp bách

[271] Tằm

[272] Tâm chẳng trụ vào đâu, đoạn tận tham luyến

[273] Tín đồ Phật Giáo ngồi ngay ngắn, an nhiên mà chết, gọi là tọa hóa

[274] Dùng việc công trả tư thù

[275] Việc nhân đức không nhường ai; việc đáng làm thì phải làm

[276] Chỗ này dường như tác giả nhầm lẫn về thời gian. Từ khi Bạch Thế Kính và Mã phu nhân chết, Kiều Phong và A Tử đến ở với tộc người Nữ Chân và nước Liêu hơn một năm.

[277] Đích thân trưởng lão Cái Bang mở

[278] Giỏi lý luận biện bạch

[279] Lung: điếc, á: câm

[280] Nghe bằng tâm, nói bằng bút còn hơn người thường nghe bằng tai, nói bằng lưỡi.

[281] Tình cờ không hẹn mà gặp

[282] Niết bàn của của các vị Bồ tát, đạt được khi tâm không trụ vào đâu, đoạn tận tham luyến

[283] Oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc

[284] Ngũ uẩn hay năm uẩn là năm yếu tố gồm có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Năm yếu tố đó nương tựa vào nhau để tạo thành con người gồm: thân thể (yếu tố vật lý) gọi là sắc và các yếu tố về tinh thần, tâm lý gọi chung là danh như thọ (cảm giác thọ nhận), tưởng (tri giác, ấn tượng), hành (hành xử tạo nghiệp) và thức (ý thức, sự nhận biết). Ngũ uẩn cũng được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Phật hay A-la-hán mới không bị dính mắc nơi chúng.

[285] Ti trúc: Đàn và sáo. Quản: ống sáo, Huyền: dây đàn, dùng để nói chung về âm nhạc.

[286] Sai khiến rắn độc kiềm chế địch

[287] Loài rắn hay trăn đều có răng hình móc câu, bất luận con vật nào bị đớp đều dần dần bị đẩy vào bụng, không thể thoát ra được.

[288] Tám vạn bốn nghìn con trùng

[289] Đám tang ông Tiết Mộ Hoa, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi

[290] Bài vị thờ Tiết Mộ Hoa

[291] Tì-kheo (Tỉ kheo, Tỳ khưu, Tỉ khâu) là danh từ phiên âm từ chữ “bhikṣu” trong tiếng Phạn, có nghĩa là “người khất thực”. Trong Phật giáo, thuật ngữ có nghĩa là một tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lãnh giới luật.

[292] Cùng bệnh thì cùng thương xót nhau. (Nghĩa bóng) Khi người ta cùng ở một hoàn cảnh giống nhau thì người ta thông cảm với nhau.

[293] Đường Huyền Tông, hay Đường Minh Hoàng, tên thật là Lý Long Cơ, còn được gọi là Võ Long Cơ trong giai đoạn 690 – 705, là vị Hoàng đế thứ 7 hoặc thứ 9 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Mai Phi, tên thật Giang Thái Tần (? – 755). Từng được Huyền Tông sủng ái nhưng sau vua say mê Dương Quý Phi thì liền bị thất sủng, sau bị giết trong cơn binh lửa khởi loạn bởi An Lộc Sơn.

[294] Người quân tử không làm trái điều nhân nghĩa đạo đức dù chỉ trong khoảng cách một bữa ăn. Dù vội vã cấp thiết cũng không như vậy, dù phải khốn cùng phiêu dạt cũng không rời xa đạo nhân.

[295] Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ, cả thiên hạ [chịu cảm hoá] quay về về với điều nhân vậy.

[296] Không nhìn điều sai, không nghe điều bậy, không nói điều trái, không làm điều quấy

[297] Người có nhân rất dũng cảm, nhưng người dũng cảm chưa chắc có nhân.

[298] Khổng tử nói: “Trò Sâm à, đạo của ta nhất quán một điểm thôi”. Tăng tử nói: “Đạo của thầy chỉ có một chữ “trung thứ” thôi”.

[299] Khổng tử nói: “Đến như Lý chết cũng chỉ có quan tài không có quách”. (Chú giải: Nhà Nhan Uyên quá nghèo không thể mua quách được. Nhan Lộ là cha Nhan Uyên xin thầy Khổng bán xe mua quách cho Uyên, Khổng tử không đồng ý, cho rằng làm việc tang cũng nên lượng sức mình, tránh tốn kém, ngay cả Lý là con trai Khổng tử chết cũng không có quách)

[300] Duy chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó giáo dưỡng.

[301] Vua nhìn tả hữu mà nói qua chuyện khác.

[302] Một người bất nhân, coi chữ lễ có ra gì? Một người không có lòng nhân sao có thể tấu nhạc?

[303] “Có phế bỏ thất tình, Mới mong tròn quả phúc. Tâm thần tán tụ hoài, Chưa thoát vòng trần tục.”

[304] “Hỏi ai người đắc pháp, Nhân giả phải tinh vi.”

[305] Lệnh vua đã gọi thì không được chậm trễ.

[306] Hư mà thực, thực mà hư

[307] Người hay quỷ cũng khó phân biệt

[308] Người trước, kẻ sau không ai bằng

[309] Công phu rắm ngựa

[310] Công phu thổi phồng

[311] Công phu mặt dày

[312] Kìm tâm mình là giới, nhờ giới sinh định, nhờ định mà sinh huệ.

[313] Dùng đánh và hét để cảnh tỉnh sự mê chấp của người học. Đòn cảnh tỉnh.

[314] Quan ngọc là một loại ngọc tốt không bị vết là cực đẹp. Người Trung Quốc xưa dùng loại ngọc này để gắn lên mũ các quan đại thần. Nhan như quan ngọc là tướng phú quý.

[315] Trong đời người, trong mười việc thì thường có đến bảy tám việc là không như ý.

[316] Theo chính đạo của trời đất, phân rõ lục khí của vũ trụ, ngao du đến chỗ vô cùng, đó chính là Tiêu Dao.

[317] Ca ngợi Tinh Tú Lão Tiên giương oai ở Trung Nguyên

[318] Quan môn: đóng cửa, quan môn đệ tử: đệ tử được thu cuối cùng

[319] Trên trời còn có trời, trên người còn có người. Tương đương “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”.

[320] Quân tử báo thù mười năm chưa muộn

[321] Không đúng lễ không nhìn, không đúng lễ không làm

[322] Không đúng lễ không nói

[323] Không đúng lễ thì không theo

[324] Khói đốt bằng phân chó sói

[325] Nới rộng bằng cách lấn từ bên trong lấn ra

[326] Dám làm việc nghĩa

[327] Trước tự giết mình sau mới tấn công người

[328] Trưởng lão hài đồng ở núi trời

[329] Tránh xa tham lam sắc dục, giữ tâm trong sáng

[330] Cái gì có tướng, tức là hư vọng

[331] Số năm chỉ tuổi của một người.

[332] Phải đặt mình vào tuyệt địa thì mới sống được

[333] Môn công phu không có hình hài

[334] Đẹp đẽ, tú lệ không ai sánh bằng

[335] Tâm viên ý mã: cái tâm như khỉ vượn, cái ý như ngựa chạy; chỉ về tâm trí bất định, thường biến của nội tâm con người.

[336] Túc duyên đã hết thì chẳng nên miễn cưỡng làm gì

[337] Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng

[338] Nhìn không vào mắt, nghe chẳng vào tai

[339] Anh chàng mặt trắng Võ Phan An

[340] Chung Quỳ là một vị thần diệt yêu trừ ma trong truyền thuyết dân gian Trung Hoa. Ông sống vào thời nhà Đường, sinh ra đã có tướng mạo kỳ dị, đầu báo mắt tròn, mặt đen tóc xoăn, nhưng lại là người có tài hoa, đầy bụng kinh luân, tính tình thẳng thắn cương trực. Vì bất mãn triều đình không thu dụng, nên ông tự sát, chết trở thành vị thần chuyên trừ yêu diệt ma.

[341] Đời người như mộng, huyễn, bọt, bóng; như sương, như chớp loé

[342] Độ Điệp là giấy chứng nhận do quan phủ cấp khi Tăng Ni xuất gia, tức Chứng Điệp Tu Sĩ, trên đó có ghi ngày tháng năm xuất gia, tên các vị quan chứng minh và dấu ấn.

[343] Lên được tới đỉnh cao nhất

[344] Mai Lan Cúc Trúc là bộ tranh tứ quý nổi bật với dư vị của bốn mùa trong năm. Bộ tranh tượng trưng cho sự đầy đủ, niềm hạnh phúc và sự vĩnh cửu.

[345] Không ngay thẳng, xấu xa

[346] Ai không thấy Tử Đô đẹp thì người đó không có mắt. Ai không thấy nàng đẹp thì không phải là con người nữa. Lòng yêu cái đẹp, ai ai cũng có.

[347] Chúng sinh vô ngã; Không tự biết mình; Đau khổ vui mừng; Đều do duyên kiếp

[348] Nếu như được quả báo tốt đẹp, những việc vinh dự, cũng đều là nhờ việc đã làm trong quá khứ. Khi duyên hết trở lại thành không, có gì là vui? (Nhược đắc thắng báo vinh dự đẳng sự, thị ngã quá khứ túc nhân sở cảm, kim phương đắc chi. Duyên tận hoàn vô, hà hỷ chi hữu.)

[349] Được mất đều để mặc duyên số, tâm mình không hề lay động

[350] “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Theo quan niệm về nhân sinh của Phật giáo, muôn vật do sự biến đổi mà sinh ra, vốn không có thật. Thân thể của chúng ta hay của vạn vật là Sắc, chỉ có tạm trong một thời gian sống, sau đó chết đi, xác thân rã tan biến trở lại thành Không. Rồi từ chỗ Không lại biến hóa thành hình tướng tức là Sắc.

[351] Danh không đúng với thực

[352] Chỉ những lời của một trong hai bên tranh chấp

[353] Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết.

[354] Tinh Tú Lão Tiên, đức ngang trời đất, danh lừng vũ trụ, cổ kim khó sánh

[355] Đoàn chưởng môn phái Tinh Tú

[356] Thiên luân: (1) Đạo lý tự nhiên. (2) Chỉ mối quan hệ thân thiết của cha con, anh em; nên “thiên luân chi lạc”: dùng để chỉ niềm lạc thú của gia đình, sự đoàn tụ của mọi người trong nhà.

[357] Đầu sỏ gây ra tai họa

[358] Sâu không lường được

[359] Sai bét

[360] Bảo vật của hoàng đế Đại Yên

[361] Nói chuyện giật gân; bắn tiếng đe doạ

[362] Bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu

[363] Các khanh nghe lời hiệu triệu, từ xa đến đây, trẫm rất hài lòng, ban cho ngự yến. Khâm thử.

[364] Trừ tham, trừ ái, trừ thủ, trừ triền

[365] Nâng án ngang mày, trăm năm đầu bạc

[366] Mất tung tích

[367] Học thức, kiến văn thiển bạc.

[368] Lo được lo mất

[369] * Hoa trà vùng Vân Nam (Điền là tên gọi tắt vùng Vân Nam, tức Đại Lý). Về mặt lịch sử thì đời Tống trở về trước, người Trung Hoa chưa biết nhiều về hoa trà Đại Lý, chỉ có đôi ba thi nhân làm thơ ca tụng. Phải đến đời Minh mới có sách vở viết về hoa trà (chúng tôi sẽ viết rõ về Hoa Trà Đại Lý trong một biên khảo riêng)

[370] * Hoa trà Đại Lý có khắp nơi, trong bảy mươi loại có hai giống to như mẫu đơn, sắc đỏ như lửa chẳng khác gì ráng mây như gấm bao quanh mặt trời.

[371] Nấu cơm

[372] * Cháu gọi bằng cậu hay mợ (khác họ, ngược với điệt là cháu gọi bằng cô hay chú cùng họ với mình)

[373] * Ở đây Kim Dung lại viết là Mỹ Nhân Trảo Phá Kiểm, người dịch để lại giống như chương 12

[374] Tội bất hiếu có ba điều, mà không con nối dõi là lớn nhất.

[375] Thời trước chỉ kĩ viện hoặc nơi tụ tập kĩ viện, cũng nói là “liễu hạng hoa nhai”.

[376] Cô, dì

[377] * Mợ, vợ của cậu mình

[378] * Chương 47 viết là Song Phượng

[379] * Thiên Long tự ngoại, Bồ đề thụ hạ. Hóa tử liệp thạp, Quan Âm trường phát.

[380] * Sinh ngày 23 tháng 11 năm Quí Hợi, Bảo Định thứ hai nước Đại Lý tức năm 1083 theo chính sử.

[381] * Nghĩa là được hưởng cúng tế của người ngoài không phải con cháu mình

[382] Quân tử tuyệt giao không nói lời xấu

[383] Người xa không làm ngăn cách được người gần, ý nói người thân cận thì đáng tin hơn.

[384] * Sử gọi là vua Triết Tông. Đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở trước. Đoàn Dự sinh năm 1083, tới lúc này khoảng trên dưới 20, vậy phải vào năm 1102 tức là đời vua Huy Tông (lên ngôi 1101). Vua Triết Tông lên ngôi từ 1086 lúc 10 tuổi, bà Thái hậu Cao thị nhiếp chính, khi Cao thị mất (1093) thì Đoàn Dự chỉ mới 10. (Xin xem thêm Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)

[385] * Bà nội, tiếng gọi thân mật và kính trọng

[386] * Thùy liêm (thính chính) là buông rèm xuông ngồi đằng sau nhà vua nhắc việc nước

[387] Buông rèm nhiếp chính (nghe việc nước)

[388] * Tức Tô Đông Pha

[389] * 1041-1098

[390] * (1035-1105) được Vương An Thạch dùng làm Tam Ti sứ (quan trông coi việc tài chánh, thuế má và khai thác các mỏ), là một nhân vật trong yếu trong việc thi hành Tân Pháp.

[391] * Thẩm Khởi muốn tâng công với Vương An Thạch dâng sớ xin đánh Giao Châu (tức nước ta) để thị uy chư hầu. Triều đình nhà Tống sai Lưu Gi chuẩn bị, đặt ra nhiều lề luật sách nhiễu nước nam nên vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đảng đánh sang tận châu Khâm, châu Liêm.

[392] * (1031-1095) là một nhà bác học lỗi lạc của Trung Hoa, tác giả bộ Mộng Khê Bút Đàm không biết có phải Thẩm Quát này không? Người dịch chưa tìm ra ông sai lầm gì trong việc thi hành chính sách mà bị chỉ trích ở đây. Đoạn này chỉ tạm dịch theo nguyên văn, khi nào tìm thấy thêm chi tiết mới chúng tôi sẽ bổ cứu.

[393] * Quân du: nhà nước mua những chỗ có hàng hóa dư, đem phân phối chỗ thiếu cho khỏi bị đầu cơ tích trữ làm giá của con buôn (xem thêm Hậu Cảnh TLBB, biên khảo của Nguyễn Duy Chính)

[394] Biết lỗi có thể sửa

[395] Chết; băng hà (thời xưa chỉ cái chết của hoàng đế)

[396] * Lang yên: phân chó sói khi đốt khói bốc lên cao, ngày xưa dùng để làm tín hiệu báo động

[397] * Một giống Hung Nô

[398] * Phong hỏa nhiên bất tức, Chinh chiến vô dĩ thời. Dã chiến cách đấu tử, Bại mã hiệu minh hướng thiên bi. Điểu diên trác nhân trường, Xung phi thượng quải khô chi thụ. Sĩ tốt đồ thảo mãng, Tướng quân không nhĩ vi. Nãi tri binh giả thị hung khí, Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi.

[399] * Vong ngã Kỳ Liên sơn, Sử ngã lục súc bất phiên tức. Vong ngã Yên Chi sơn, Sử ngã phụ nữ vô nhan sắc.

Trước Sau

Cài đặt đọc truyện

Màu nền:
Cỡ chữ:
Giãn dòng:
Font chữ:
Ẩn header khi đọc
Vuốt chuyển chương

Danh sách chương

Truyen.Free