Giới thiệu
Tác giả: Arthur Golden. Thể loại: Truyện Khác. Lời Tựa: Vào một đêm xuân năm 1936, khi ta còn là một thiếu niên mười sáu tuổi, phụ thân ta đã dẫn ta tới kinh đô Kyoto để chiêm ngưỡng buổi trình diễn ca vũ. Về buổi diễn ấy, ta chỉ còn khắc ghi hai điều. Thứ nhất, phụ tử chúng ta là hai người phương Tây duy nhất giữa chốn khán phòng, khi ấy mới từ cố hương Hòa Lan đặt chân tới xứ này vài tuần. Bởi lẽ đó, ta chưa thể thấu triệt nền văn hóa xa lạ nơi đây, song cảm thấy vô cùng lôi cuốn. Thứ hai, sau nhiều tháng miệt mài học tập Nhật ngữ, ta cảm thấy hứng thú vô ngần khi có thể hiểu được đôi điều từ những câu chuyện mà họ đàm đạo. Riêng về những thanh sắc giai nhân Nhật Bản đang ca múa trên sân khấu trước mắt, ta chẳng còn nhớ gì, ngoại trừ hình ảnh mờ ảo về những chiếc kimono rực rỡ sắc màu. Giữa chốn Thành phố New York xa xôi vạn dặm cách biệt Nhật Bản, sau gần năm mươi năm, nếu không có vị nữ nhân thuở ấy từng múa trên sân khấu nay là tri kỷ của ta, tự mình kể lại hồi ức cho ta ghi chép, e rằng ta sẽ chẳng thấu hiểu chút nào về nền văn hóa kỳ bí ấy. Với thân phận một sử gia, ta luôn coi hồi ức là nguồn tư liệu vô cùng quý giá. Hồi ức hé lộ về xã hội đương thời sâu sắc hơn chính cuộc đời của người chấp bút. Hồi ký khác biệt tiểu sử ở chỗ, người viết hồi ký không bao giờ có thể hoàn tất kết cục, còn người viết tiểu sử dĩ nhiên thì có. Nếu cho rằng hồi ký là sự tự nguyện, chi bằng yêu cầu một con thỏ thuật lại cho chúng ta nghe về cánh đồng mà nó đã từng lướt qua. Làm sao nó có thể biết được? Thế nhưng, nếu chúng ta khao khát thấu hiểu cánh đồng ấy, mong muốn lắng nghe về những nơi mà con thỏ không thể nhìn thấy, thì chẳng ai có hoàn cảnh thuận tiện hơn để kể. Ta nói điều này với tâm thế của một nhà sử học, dựa trên những dữ liệu chân thực. Dẫu vậy, ta vẫn phải thú nhận rằng, hồi ký của bằng hữu ta, Nitta Sayuri, đã khiến ta phải suy xét lại những nhận định của bản thân. Đúng vậy, nàng đã hé mở cho chúng ta một phần thế giới khuất lấp mà nàng từng trải – nếu quý vị muốn gọi đó là cái nhìn của con thỏ về cánh đồng cũng không sai. E rằng không có tư liệu nào kỳ diệu hơn, trọn vẹn hơn để kể về đời sống phi phàm của một nàng geisha, bằng những gì Sayuri đã hiến tặng cho chúng ta. Nàng còn để lại cho chúng ta những chứng liệu đầy đủ, chuẩn xác, và đầy sức thuyết phục về cuộc đời nàng, hơn hẳn những chương sách luận giải dài dòng trong cuốn “Những viên ngọc lóng lánh của nước Nhật” (Glittering Jewels of Japan), hay hơn cả những bài viết trên các tạp chí xuất bản trong suốt những năm qua. Ít ra thì đây cũng là một trường hợp hãn hữu, bởi chẳng ai có thể thấu triệt người viết hồi ký bằng chính đương sự. Việc Sayuri nổi danh lừng lẫy ấy âu cũng là chuyện may mắn. Nhiều nữ nhân khác cũng từng sống một đời tương tự nàng. Nàng Kato Yuki danh tiếng – nàng geisha đã chiếm được trái tim của J. Pierpont, và trở thành thiếp thất của ông trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ này – đã trải qua một cuộc đời còn hiếm có kỳ lạ hơn cả Sayuri. Thế nhưng, chỉ có Sayuri mới cung cấp cho ta tư liệu về đời nàng trọn vẹn đến nhường này. Ta tin rằng quyết định chấp bút công việc này của nàng là do duyên cớ ngẫu nhiên. Nếu nàng vẫn còn ở Nhật Bản, e rằng cuộc sống bận rộn sẽ khiến nàng chẳng thể nào tính đến chuyện ghi chép hồi ký. Dẫu vậy, vào năm 1956, hoàn cảnh đã đưa đẩy Sayuri xuất bôn sang Hoa Kỳ. Nàng đã cư ngụ tại khách sạn Waldorf ở New York suốt bốn mươi năm, biến căn hộ tầng ba mươi hai của khách sạn thành một ngôi nhà mang phong cách Nhật Bản tuyệt mỹ. Nhưng cuộc sống của nàng nơi đây cũng hết sức tấp nập, căn hộ của nàng luôn có nhiều nghệ sĩ, trí thức, doanh nhân Nhật Bản thường xuyên ghé thăm – thậm chí có cả các vị Bộ trưởng trong nội các và đôi ba cường khấu. Mãi tận đến năm 1985, nhờ có bằng hữu tiến cử, ta mới được diện kiến nàng. Là kẻ chuyên tâm nghiên cứu về Nhật Bản, ta vốn đã nghe danh Sayuri, song hầu như chẳng hề thấu rõ về nàng. Nhờ tình giao hữu thâm sâu ngày càng thêm gắn bó, nàng đã đặt trọn niềm tin nơi ta. Một ngày, ta cầu thỉnh nàng cho phép ta chấp bút ghi lại câu chuyện đời nàng. Nàng đáp: "Được thôi, Jakob-san, nếu tiên sinh đích thân thu âm lời kể của ta." Thế là công việc của chúng ta bắt đầu. Sayuri nói rằng nàng muốn khẩu thuật hồi ký hơn là chấp bút, bởi nàng đã quen đối diện trực tiếp với người khác để trò chuyện, chứ không biết cách viết lách ra sao khi ngồi một mình trong phòng tĩnh mịch. Ta đồng thuận, và bản thảo của ta đã được nàng khẩu thu��t, ta ghi chép ròng rã mười tám tháng trời. Ta không am tường thổ ngữ Kyoto của Sayuri – ví như các nàng geisha được dân chúng nơi đó gọi là geiko, áo kimono thì được xưng là Obebe – nên khi bắt tay vào việc, ta đã phải vô cùng vất vả mới có thể diễn giải chuẩn xác ý nghĩa của chúng. Ngay từ thuở đầu, ta đã bị thế giới của nàng mê hoặc. Chúng ta thường gặp nhau vào các buổi tối, bởi theo thói quen lâu ngày của Sayuri, buổi tối là lúc tinh thần nàng minh mẫn nhất. Thường thì nàng thích làm việc trong căn phòng của mình tại khách sạn Waldorf Towers, nhưng đôi lúc chúng ta gặp nhau trong một căn phòng riêng tại nhà hàng Nhật Bản trên đại lộ Park Avenue, nơi mọi người đều biết đến nàng. Những buổi làm việc của chúng ta thường kéo dài hai hoặc ba giờ. Mặc dù chúng ta có thu âm lời nàng kể, song mỗi buổi làm việc đều có thư ký của nàng ở đó để ghi chép, và cô ta đã ghi chép vô cùng chân thực. Nhưng Sayuri không nói vào máy ghi âm hay nói với cô thư ký; nàng luôn luôn nói với ta. Khi nàng không nhớ mình đã kể đến đâu, ta là người nhắc nhở nàng. Ta tự ví mình như nền móng của một tòa nhà, và ta cảm thấy nếu ta chẳng thể giành được tín nhiệm từ nàng, thì chắc chắn nàng sẽ không bao giờ kể ra câu chuyện này. Điều khiến chúng ta băn khoăn nhất là vì sao Sayuri lại muốn thuật lại câu chuyện này? Dẫu không có luật lệ chính thức nào ép buộc giới geisha giữ kín mọi việc, nhưng họ đã quen với điều đó từ lâu. Giới geisha không bao giờ kể những chuyện đã xảy ra với họ để người đời ghi chép. Tựa như những kỹ nữ, giới geisha thường phải giữ vị thế đặc thù, không nên nhắc đến những vị khách đã từng phong lưu với họ. Họ phải giữ vững niềm tin nơi khách hàng, nếu không sẽ rước lấy tai họa. Trường hợp Sayuri kể lại câu chuyện của mình là bởi chẳng còn ai ở Nhật Bản có thể trách phạt nàng được nữa. Mối duyên nợ với cố hương đã đoạn tuyệt. Điều này ít nhiều cho chúng ta biết lý do vì sao nàng không cần phải giữ im lặng, nhưng vẫn không hé lộ vì sao nàng lại muốn kể. Ta e ngại chẳng dám truy hỏi lý do này, lỡ đâu nàng cẩn trọng mà đổi thay tâm ý thì sao. Ngay cả khi bản thảo đã hoàn thành, ta cũng không dám hỏi. Chỉ sau khi nàng đã đạt được thỏa thuận với nhà xuất bản, ta mới thấy yên lòng mà truy hỏi: "Vì sao nàng muốn thuật lại chuyện đời mình?" Nàng đáp: "Không kể thì ta làm gì cho qua hết thời gian hư ảo này?" Cái lý do đơn giản như vậy có đúng hay không, ta xin nhường lại quyền tự mình nhận định cho chư vị độc giả. Mặc dù Sayuri ưng thuận kể lại chuyện đời mình, nàng vẫn đề ra vài điều kiện. Nàng mong muốn tác phẩm được ấn hành khi nàng đã quy tiên và những nhân vật trọng yếu liên quan đến cuộc đời nàng không còn hiện hữu trên dương thế. May mắn thay, số phận đã an bài những nhân vật ấy đã tạ thế trước nàng. Nàng lo sợ việc cuốn sách ra đời sẽ khiến họ bàng hoàng khốn đốn. Tên các nhân vật trong truyện một số được giữ nguyên, một số được Sayuri che giấu bằng cách chỉ gọi biệt danh của họ, ví như ông “Mưa tuyết” chẳng hạn. Khi ta yêu cầu Sayuri dùng máy ghi âm để ghi lại lời kể của nàng, là ta cốt hòng đảm bảo việc phiên dịch câu chuyện của nàng đạt đến sự chuẩn xác tối đa. Tuy nhiên, từ ngày nàng mất vào năm cũ, ta nhận ra việc ghi âm còn mang một tầng ý nghĩa thâm sâu khác, là nó lưu giữ lại giọng nói của nàng – giọng nói chứa đựng bao cảm xúc, mà ta hiếm khi được lắng nghe từ người phàm khác. Giờ đây, mỗi lần mở băng ghi âm ra để lắng nghe lại giọng nói của nàng, ta thấy khó lòng tin rằng nàng đã từ giã cõi trần thế này. Jakob Haarhuis Arnold Rusoff Giáo sư Lịch sử Nhật Bản, Đại học New York