Menu
Đăng ký
Truyện
← Trước Sau →
Truyen.Free

(Đã dịch) Đế Quốc Babylon - Chương 975 : Ericsson mắt thần

Nhà máy đóng tàu Biển Đen là xưởng đóng tàu bận rộn nhất châu Âu. Hải quân Liên Xô đang nhanh chóng bành trướng, có thể liên tục đóng mới các tàu sân bay của mình mà không cần lo lắng về vấn đề tài chính có đủ hay không. Điểm này hoàn toàn dựa vào nguồn tiền đầu tư từ Iraq, mà tiền của Iraq lại gần như toàn bộ được thu về từ các quỹ tài chính của đảo quốc. Nói cách khác, thực chất, việc Iraq mua sắm tàu sân bay và các trang bị khác là nhờ sự tài trợ tiền bạc từ người dân đảo quốc.

Cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng tại đảo quốc đã bùng phát được vài tháng, dù thời gian đã bước sang năm 1987 nhưng tình hình kinh tế của họ không hề có chuyển biến nào. Bong bóng kinh tế của họ cuối cùng đã được chính phủ nhìn nhận. Họ cảm nhận được áp lực và quyết định thay đổi định hướng chính sách tiền tệ. Từ tháng 5 năm 1989 đến tháng 8 năm 1990, Ngân hàng Trung ương đảo quốc đã năm lần điều chỉnh lãi suất chiết khấu, từ 2,5% lên 6%. Đồng thời, Bộ Tài chính đảo quốc yêu cầu tất cả các tổ chức tài chính kiểm soát các khoản vay bất động sản, yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại cắt giảm mạnh mẽ các khoản vay. Đến năm 1991, các ngân hàng thương mại của đảo quốc ngừng cấp tín dụng cho ngành bất động sản. Chính sách tiền tệ đảo chiều đột ngột này đã trực tiếp làm vỡ bong bóng thị trường chứng khoán Nhật Bản.

Khi đó, chính phủ đảo quốc đã có sự chuẩn bị và dự đoán trước, nhưng lần này lại hoàn toàn không lường trước được kết quả. Vì vậy, cơn bão kinh tế bất ngờ ập đến đã khiến chính phủ đảo quốc cũng không biết phải xoay sở ra sao. Họ bất lực nhìn giá cổ phiếu lao dốc và cuộc khủng hoảng kinh tế bùng phát mà không làm được gì.

Trong cuộc khủng hoảng này, ngoại trừ số tiền đã được rút ra trước đó cùng tài sản của người dân đảo quốc bị thất thoát, phần lớn các nhà đầu tư, kể cả người bản xứ, đều trở thành nạn nhân. Đến lúc này, mọi người mới nhận ra rằng quyết định của Vương tử Waleed khi ấy lại sáng suốt đến nhường nào. Chỉ nửa tháng sau khi ông ta rút vốn, cuộc khủng hoảng tại đảo quốc đã bắt đầu.

Mặc dù tình báo đảo quốc đã ngấm ngầm điều tra Vương tử Waleed nhưng không tìm thấy bất kỳ sơ hở nào. Chỉ có thể nói là thời điểm quá trùng hợp. Ngân hàng Thương mại Liên hiệp Ả Rập khi ấy thực sự đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng lớn, mà Vương tử Waleed lại là người Saudi, đương nhiên không thể khoanh tay đứng nhìn.

Người Saudi Arabia tuy giàu có, nhưng họ xưa nay lại không mấy quan tâm đến việc đầu tư tài chính quốc tế. Kuwait thì có thể, nhưng khi đó các khoản tiền của Kuwait đều đang được dùng cho các hoạt động kinh doanh ở châu Âu, nên cuộc điều tra về cuộc khủng hoảng lần này của họ cuối cùng cũng không đi đến đâu.

Công cuộc xây dựng đất nước Iraq, nhờ hành động kinh tế thành công lần này, bắt đầu tiến triển nhanh chóng.

Đồng thời, Iraq cũng có đủ tiền để một lần nữa đổi mới trang bị quân sự.

Thụy Điển, một quốc gia nhỏ ở Bắc Âu.

Dù là một quốc gia nhỏ, Thụy Điển lại là một cường quốc trong lĩnh vực nghiên cứu và chế tạo vũ khí quốc phòng. Thụy Điển đã chọn một con đường phát triển độc đáo. Nhờ chính sách quốc phòng trung lập, Thụy Điển có thể xuất khẩu vũ khí cho bất kỳ quốc gia nào miễn là không bị Liên Hợp Quốc trừng phạt.

Nói cách khác, không như Mỹ phải hạn chế cấp độ kỹ thuật khi xuất khẩu, Thụy Điển có thể chuyển giao công nghệ tiên tiến nhất của mình cho bất kỳ quốc gia nào có đủ khả năng tài chính.

Iraq, một quốc gia Trung Đông, luôn ���p ủ tham vọng phát triển quân sự mạnh mẽ. Vì vậy, hai bên đã đạt được một loạt thỏa thuận, và giờ đây Iraq đã trở thành một trong những đối tác quan trọng của Thụy Điển trong việc tiếp nhận và cùng nghiên cứu chế tạo vũ khí, trang bị. Sở dĩ như vậy là vì các kỹ sư Iraq cũng tham gia vào quá trình phát triển các loại vũ khí này. Với mỗi dự án được đưa ra, Iraq đều yêu cầu chia sẻ công nghệ, và trong một số lĩnh vực, cả hai bên còn cùng nhau khai thác.

Một chiếc máy bay vận tải cỡ lớn đang đậu trong một xưởng lắp ráp hoàn chỉnh của công ty Saab. Chiếc máy bay này sử dụng cấu trúc cánh đơn gắn bốn động cơ phản lực cánh quạt, và ở mũi máy bay còn có khoang hoa tiêu – một trang bị đã sớm bị phương Tây loại bỏ. Cửa khoang phía đuôi phẳng và cấu trúc đuôi chữ T cũng cho thấy đây là một chiếc IL-76, máy bay vận tải mang dòng máu Liên Xô. Dấu hiệu trên cánh đuôi còn chỉ rõ nó thuộc không quân Iraq.

Hiện tại, chiếc máy bay này đang là một dự án trọng điểm của công ty Saab, với các kỹ sư ra vào liên tục để lắp đặt thiết bị. Sự hiện diện của người Thụy Điển, người Iraq và người Anh cho thấy đây là một sản phẩm hợp tác quốc tế.

Trong số đó, các kỹ sư của công ty Ericsson có lẽ là những người hào hứng nhất. Họ đặt kỳ vọng rất cao vào chiếc máy bay này, bởi hệ thống radar mảng pha mới do họ nghiên cứu chế tạo riêng cho nó sắp được lắp đặt và tiến hành bay thử nghiệm.

Từ đầu những năm 1980, Ericsson Microwave Systems đã bắt tay vào phát triển hệ thống radar cảnh báo sớm đường không. Với tầm nhìn xa trông rộng, họ đã bỏ qua các giai đoạn đầu phát triển radar giám sát đường không truyền thống, radar mảng pha thụ động của các quốc gia khác, và trực tiếp tập trung vào radar mảng pha chủ động đường không.

Vào giữa thập niên 80, Ericsson Microwave Systems đã nghiên cứu thành công hệ thống radar cảnh báo sớm đường không mảng pha chủ động FSR-890 "Erieye-based". Đầu năm 1985, hệ thống này đã được thử nghiệm thành công trên không, và tại Triển lãm Hàng không Paris năm 1986, radar PS-890 "Erieye-based" lần đầu tiên được công chúng biết đến.

Hệ thống này, sau khi đư��c cải tiến và lắp đặt trên máy bay vận tải của Iraq, được đặt một cái tên còn vang dội hơn: Mắt thần Ericsson.

Chiếc máy bay này chính là nền tảng cảnh báo sớm thế hệ mới mà Iraq đã đầu tư một khoản tiền khổng lồ để chế tạo. Nó sử dụng máy bay vận tải quân sự ưu việt IL-76 làm nền tảng. Loại máy bay vận tải này có tải trọng lớn, không gian nội thất rộng rãi, có thể bố trí từ mười sĩ quan cảnh báo sớm trên không trở lên. Hơn nữa, so với Y-10, loại máy bay này vốn là dòng quân sự, có khả năng cất hạ cánh dã chiến, với các tính năng vượt trội hơn. Về sau, nhiều quốc gia đã chọn máy bay này để cải tiến, ví dụ như Cảnh-2000 của cường quốc phương Đông.

Hiện tại, mối quan hệ giữa Iraq và Liên Xô ngày càng ấm lên, Iraq đã nhận được tổng cộng hơn năm mươi chiếc máy bay vận tải IL-76 từ Liên Xô. Vì vậy, nước này cuối cùng cũng có thể sử dụng loại máy bay vận tải này làm nền tảng để cải tạo thành các loại máy bay chuyên dụng khác, chẳng hạn như máy bay cảnh báo sớm và máy bay tác chiến điện tử.

Hiện tại, quân đ��i Iraq đang trang bị hai loại máy bay cảnh báo sớm. Thứ nhất là máy bay cảnh báo sớm Hawker Siddeley Nimrod. Loại máy bay này đã bám rễ, phát triển mạnh mẽ tại Iraq, cuối cùng trở thành trụ cột bảo vệ bầu trời nước này và đạt được hiệu quả tốt trong nhiều trận chiến. Tuy nhiên, loại máy bay cảnh báo sớm này sử dụng phương pháp phóng đại radar tiêm kích, một công nghệ đã lỗi thời từ lâu. Đặc biệt, để thực tế hóa loại máy bay này, Iraq đã phải giảm bớt khả năng theo dõi và xử lý mục tiêu di chuyển tốc độ thấp, nhằm đảm bảo máy tính có đủ năng lực xử lý dữ liệu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giảm khả năng phát hiện các mục tiêu như trực thăng, ô tô – đây là giải pháp điều chỉnh cuối cùng. Do đó, hiệu suất của loại máy bay cảnh báo sớm này kém xa so với E-3. Hơn nữa, trong những năm gần đây, với sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật điện tử, loại máy bay này đã bộc lộ rõ sự lỗi thời, buộc phải nâng cấp hoặc loại bỏ.

Loại thứ hai là máy bay cảnh báo sớm E-2 mà Iraq đã mua. Mặc dù dưới sự phản đối mạnh mẽ của Qusay, Mỹ đã nâng cấp và xuất khẩu loại radar cảnh báo sớm này cho Iraq, thậm chí cả ăng-ten radar cũng được thay mới, nhưng nó vẫn còn kém xa so với phiên bản mới nhất mà Hải quân Mỹ đang sử dụng. Hơn nữa, nền tảng máy bay cảnh báo sớm này khá nhỏ, chỉ có thể chứa ba nhân viên điều khiển. Do đó, khả năng kiểm soát không phận, đặc biệt là khả năng dẫn dắt máy bay chiến đấu của mình tham gia giao chiến, không thực sự nổi bật – đây là nhược điểm cố hữu của các máy bay cảnh báo sớm cỡ nhỏ.

Tuy nhiên, máy bay cảnh báo sớm E-2 cũng có ưu điểm riêng. Nó sử dụng hình thái đĩa quay trên lưng, mà so với Hawker Siddeley Nimrod, đây mới là hình thái thường thấy của máy bay cảnh báo sớm. Trong quá trình nghiên cứu E-2, các kỹ sư Iraq cũng đã tích lũy được không ít kỹ thuật dự trữ.

Dựa trên việc tổng hợp các ưu nhược điểm của hai loại máy bay cảnh báo sớm trên, cùng với kinh nghiệm từ bộ phận Erieye-based của công ty Ericsson, Iraq đã bắt tay vào nghiên cứu chế tạo máy bay cảnh báo sớm thế hệ tiếp theo. Cụ thể, họ sử dụng nền tảng IL-76, áp dụng công nghệ radar mảng pha chủ động do Ericsson phát triển, kết hợp với hệ thống xử lý máy tính và các thiết bị điện tử khác, để tạo ra một loại máy bay cảnh báo sớm kiểu mới tương tự E-3.

Ban đầu, Erieye-based sử dụng ăng-ten radar dạng thanh thăng bằng, trông như một khúc gỗ đặt trên thân máy bay. Với cấu hình này, nó chỉ có thể quét một khu vực không gian 120 độ ở hai bên, để lại 60 độ phía trước và phía sau là điểm mù. Để dò tìm mục tiêu toàn diện, máy bay cần phải bay theo hình số 8 liên tục. Đây cũng là nét đặc trưng của công nghiệp quốc phòng Thụy Điển: họ phải dựa trên tình hình thực tế của đất nước. Các loại máy bay cảnh báo sớm chiến lược cỡ lớn của Mỹ và Liên Xô tuy có tính năng tiên tiến nhưng quá đắt đỏ và không phù hợp với Thụy Điển – một quốc gia có ngân sách quốc phòng hạn hẹp và không quân chỉ với chưa đến mười nghìn người. Vì vậy, việc họ phát triển loại máy bay cảnh báo sớm với hình thức này giúp kiểm soát chi phí rất tốt, dễ dàng bán cho không quân của nhiều quốc gia có ngân sách hạn chế. Hơn nữa, để cắt giảm chi phí và cũng bởi vì nền tảng là máy bay chở khách cỡ nhỏ, họ không xử lý tín hiệu trực tiếp trên máy bay hay dẫn dắt không quân tác chiến, mà truyền tín hiệu về mặt đất để phân tích và xử lý tổng hợp.

Tuy nhiên, cấu trúc này lại có phần "gân gà" đối với một Iraq giàu có. Vì vậy, sau khi Iraq đầu tư, Erieye-based đã biến thành Mắt thần Ericsson. Iraq cần một loại máy bay cảnh báo sớm cỡ lớn, nên thanh thăng bằng cũng đã được chế tạo lại thành dạng đĩa quay trên lưng.

Chỉ cần vượt qua được rào cản kỹ thuật cơ bản nhất trong việc chế tạo các module thu/phát (T/R module) của radar mảng pha chủ động, cùng với các thuật toán xử lý dữ liệu, thì việc thay đổi hình dạng ăng-ten radar hay mang theo nhiều module hơn đều không còn là vấn đề khó khăn. Về sau, khi Cảnh-2000 xuất hiện, cường quốc phương Đông cũng đã cho ra đời Y-8 cầu thăng bằng tương tự.

Các kỹ sư của công ty Ericsson đã cùng với các kỹ sư Iraq tiến hành phát triển kỹ thuật chung.

Loại ăng-ten dạng đĩa quay mới chế tạo này có đường kính 10 mét, dài hơn cả vòm radar của máy bay cảnh báo sớm A-50 một mét. Ăng-ten radar càng lớn thì tính năng càng cao. Về sau, Israel đã bán hệ thống Phalcon cho Ấn Độ với đường kính ăng-ten vòm lên tới 11 mét. Tuy nhiên, dù ăng-ten radar có đường kính lớn hơn, nhưng với kỹ thuật mảng pha chủ động, ăng-ten không cần phải quay như ��ĩa truyền thống, giúp giảm thiểu ảnh hưởng đến tính năng bay của bản thân máy bay.

Bản biên tập này được bảo hộ bản quyền bởi truyen.free.

Trước Sau

Cài đặt đọc truyện

Màu nền:
Cỡ chữ:
Giãn dòng:
Font chữ:
Ẩn header khi đọc
Vuốt chuyển chương

Danh sách chương

Truyen.Free