(Đã dịch) Đế Quốc Babylon - Chương 1139 : Nam Tư
Trong thời gian Clinton chấp chính, nền kinh tế Mỹ ổn định và tăng trưởng với tốc độ cao. Clinton không thể không được ghi nhận công lao vì đã giúp Mỹ một lần nữa trở lại hàng ngũ các cường quốc thế giới.
Tuy nhiên, dù trong chiến dịch tranh cử, Clinton từng chỉ trích Tổng thống Bush cha chỉ biết đến quân sự, nhưng ở giai đoạn cuối nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình, ông vẫn không chút do dự giương cao cây gậy vũ lực. Mục tiêu của họ chính là Nam Tư!
Trong thời kỳ Tito, Nam Tư đã trải qua một giai đoạn phát triển ổn định, không chịu ảnh hưởng của Liên Xô, kiên trì đi theo con đường riêng của mình. Cơ cấu công nghiệp nhẹ và nặng của nước này vẫn được đánh giá là hợp lý.
Nhưng Nam Tư là một quốc gia đa dân tộc. Tito đã dựa vào tài năng của mình để gắn kết Nam Tư lại với nhau, song sau khi ông mất, Nam Tư thiếu vắng một nhân vật có đủ ảnh hưởng như vậy.
Các thế lực ly khai ở Nam Tư bắt đầu trỗi dậy.
Trong quá trình biến động ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô, Nam Tư cũng phân liệt thành nhiều quốc gia. Trong đó, Cộng hòa Liên bang Nam Tư được thành lập từ Cộng hòa Serbia và Cộng hòa Montenegro.
Ở phía tây nam của Cộng hòa Serbia thuộc Nam Tư, có một khu vực rộng 10.887 km², giáp Albania và Macedonia, với dân số hơn 2 triệu người, trong đó hơn 90% là người Albania. Cộng đồng người Albania ở Kosovo này luôn mong muốn ly khai.
Năm 1998, các phần tử cực đoan người Albania đã thành lập tổ chức vũ trang "Quân đội Giải phóng Kosovo" và bắt đầu phát động phong trào ly khai bằng bạo lực. Đối mặt với sự phản kháng của người Albania, chính quyền Nam Tư và Serbia do Milosevic đứng đầu đã chọn các biện pháp trấn áp cứng rắn, điều động một lượng lớn quân đội và cảnh sát Serbia tiến vào Kosovo để chiếm đóng, cố gắng tiêu diệt "Quân đội Giải phóng Kosovo".
Nội chiến Nam Tư chính thức bùng nổ.
Dưới bước chân mở rộng về phía đông của NATO, tham vọng của họ cũng ngày càng lớn. Khi chứng kiến tình hình hỗn loạn ở Kosovo, họ đã nhúng tay vào nội bộ Nam Tư.
Cuộc chiến trong nội bộ Nam Tư vốn là vấn đề nội chính của quốc gia này, nhưng NATO do Mỹ cầm đầu vẫn can thiệp sâu.
Ngày 6 tháng 2 năm 2000, dưới áp lực của Mỹ và NATO, đại diện Serbia và đại diện người Albania ở Kosovo đã tổ chức một cuộc đàm phán hòa bình tại Paris. Đặc sứ Mỹ Hill đã phác thảo một phương án liên quan đến việc giải quyết mâu thuẫn giữa hai bên.
Phương án này bao gồm: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ Nam Tư, Kosovo được hưởng quyền tự trị cao, quân đội liên bang Nam Tư rút khỏi Kosovo, "Quân đội Giải phóng Kosovo" giải giáp vũ khí, thành lập lực lượng cảnh sát mới dựa trên tỷ lệ dân số địa phương để duy trì an ninh trật tự, và NATO sẽ cử quân đội đa quốc gia đến Kosovo để đảm bảo thực hiện hiệp định.
Vốn là vấn đề nội bộ của liên minh Nam Tư, nhưng Mỹ cùng với NATO lại đóng vai trò cảnh sát quốc tế, đưa ra một phương án và buộc cả hai bên phải chấp nhận.
Điều này rất khó chấp nhận đối với cả hai bên. Người Albania tuyệt đối không thể giải trừ vũ khí, vì họ chiến đấu cho độc lập, mà độc lập không có quân đội chỉ là lời nói suông. Còn Nam Tư lại không đồng ý Kosovo đạt được địa vị cộng hòa tự trị, và càng không đồng ý quân đội NATO tiến vào Kosovo để chiếm đóng. Đây vốn là lãnh thổ của Nam Tư, liên quan gì đến NATO?
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hai bên đã đối đầu. Giờ đây, việc buộc họ chấp nhận một điều kiện như vậy, đơn giản chỉ là một sự chế giễu. NATO muốn cắm chân vào đây, đóng quân tại khu vực này.
Nhưng Mỹ và NATO tuyên bố rằng nội dung của phương án này không thể thay đổi, buộc phải chấp nhận, nếu không, bên nào từ chối sẽ bị trừng phạt. Cuộc đàm phán giằng co kéo dài hơn một tháng.
Cuối cùng, vào ngày 15 tháng 3, đại diện người Albania đã ký hiệp định vào ngày 18, nhưng phía Serbia vẫn từ chối ký kết. Đối với Milosevic, điều kiện này là không thể chấp nhận được, nếu không, ông ta sẽ trở thành tội nhân của Nam Tư.
Tuy nhiên, lần này Mỹ đã liên lạc với các quốc gia NATO để thống nhất quan điểm, mong muốn thông qua một cuộc chiến tranh để tìm lại cảm giác ban đầu (cảm giác làm bá chủ).
Sau khi NATO gửi tối hậu thư cho Nam Tư, chiến tranh Nam Tư bùng nổ.
Ngày 24 tháng 3, NATO phát động không kích Nam Tư.
Vô số chiến cơ gào thét bay ngang bầu trời, ném bom xuống lãnh thổ Nam Tư. Lần này, họ muốn thông qua oanh tạc để buộc Nam Tư khuất phục, đồng thời hạ bệ Milosevic và đưa ông ta ra xét xử!
Trước khi rời nhiệm, hành động này của Clinton cho thấy ông cũng là một người dám sử dụng vũ lực khi cần thiết. Cỗ máy chiến tranh hùng mạnh của Mỹ đối phó với một quốc gia nhỏ như Nam Tư không có bất kỳ vấn đề gì.
Trong chiến dịch này, họ chỉ sử dụng không quân. Mục tiêu của họ là thông qua các cuộc tấn công từ xa, không cần tiếp xúc trực tiếp, để làm tan rã tiềm lực chiến tranh của một quốc gia, buộc họ phải khuất phục.
Trong đợt không kích này, Mỹ không chỉ sử dụng các chiến đấu cơ F-15, F-16 mà còn có F-117. Thậm chí cả mẫu máy bay ném bom B-2 mới nhất cũng ra mắt, cất cánh từ lục địa Mỹ, sau bốn lần tiếp liệu trên không đã oanh tạc các mục tiêu ở Nam Tư.
Tuy nhiên, trong số đó, máy bay ném bom B-52 cũ nhưng bền bỉ vẫn là chiếc mang theo lượng bom lớn nhất và oanh tạc nhiều mục tiêu nhất.
Hơn nữa, lần này các đài truyền hình còn thực hiện phóng sự trực tiếp. Các máy bay ném bom cất cánh từ căn cứ không quân ở Anh đã được truyền hình trực tiếp. Vài giờ sau đó, chúng sẽ bay đến không phận Nam Tư để tiến hành oanh tạc.
Đối mặt với các cuộc không kích của NATO, nhân dân Nam Tư đã dũng cảm chống trả. Đồng thời, các quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới đã lên án mạnh mẽ hành động can thiệp vào chủ quyền Nam Tư của NATO do Mỹ cầm đầu.
Iraq cũng bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ, nhưng trong chiến dịch này, Iraq không cử quân đội đến giúp nhân dân Nam Tư chống lại sự xâm lược, bởi vì ở đó, anh em Hồi giáo chỉ chiếm thiểu số nên Iraq không có đủ lý do.
Mặc dù vậy, Mỹ vẫn bày tỏ sự bất mãn tột độ đối với nhiều quốc gia trên thế giới đã ủng hộ Nam Tư và phản đối hành động quân sự của Mỹ trên trường quốc tế.
Rốt cuộc là ai đã ra lệnh, là Tổng thống Mỹ Clinton, hay là chỉ huy lúc bấy giờ, hay là lỗi của phi công? Tóm lại, ba quả tên lửa bay tới đã bắn trúng chính xác cùng một mục tiêu.
Đêm khuya ngày 7 tháng 5, Đại sứ quán Trung Quốc tại Cộng hòa Liên bang Nam Tư bị Mỹ bắn trúng ba quả tên lửa. Vụ không kích này khiến ba người thiệt mạng: nữ phóng viên Tân Hoa Xã Thiệu Vân Hoàn, phóng viên Báo Quang Minh Hứa Hạnh Hổ cùng vợ là Chu Dĩnh. Hơn 20 nhân viên sứ quán bị thương, và khách sạn của đại sứ quán bị hư hại nghiêm trọng.
Vụ không kích đại sứ quán của Mỹ là một sự can thiệp thô bạo và nghiêm trọng đối với chính phủ Trung Quốc. Ngay lập tức, khắp nơi trên cả nước đã bùng nổ làn sóng phản đối Mỹ mạnh mẽ.
Đối với Mỹ, họ thừa nhận sai lầm, cho rằng vụ không kích này là do sử dụng bản đồ cũ từ mười mấy năm trước, sau đó treo cờ rũ một cách tượng trưng và bồi thường một chút tổn thất. Sự việc cứ thế trôi qua.
Chỉ có Qusay biết, chuyện này không đơn giản như vậy.
Lịch sử vẫn tiếp tục tiến về phía trước. Sự kiện này đã tạo ra chấn động lớn trong giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Trong thời kỳ khủng hoảng eo biển Đài Loan, vẫn còn một bộ phận người ảo tưởng về Mỹ. Ba quả bom của Mỹ đã hoàn toàn đánh thức họ, và công tác xây dựng quân đội bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Hai chiến hạm lớp Sovremennyy đã hoàn thành và trở về nước. Họ đã tăng cường mua thêm hai chiếc lớp Sovremennyy nữa. Máy bay cảnh báo sớm do Iraq chế tạo đã được bàn giao cho không quân sử dụng. Sau khi được tích hợp vào hệ thống dữ liệu liên kết của họ, chúng có thể chỉ huy chiến đấu cơ Su-27 và J-10 tác chiến.
Và quan trọng nhất, chiếc tàu sân bay đó cuối cùng chính phủ đã đứng ra đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ để đi qua eo biển Thổ Nhĩ Kỳ.
Một số dự án nghiên cứu khoa học trong quân đội đã đạt được thành tựu. Số lượng vũ khí dẫn đường chính xác trong quân đội cũng đang dần tăng lên.
Qusay biết rằng sự kiện này đã tạo ra chấn động lớn cho giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, và hợp tác quân sự giữa hai bên cũng bắt đầu được củng cố vững chắc.
Thời gian sắp bước vào năm 2001, Bush con cuối cùng đã tranh cử thành công, trở thành Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ. Ông cũng là vị tổng thống thứ hai sau John Quincy Adams (vị tổng thống thứ 6 của Hoa Kỳ) nối bước cha mình đắc cử tổng thống.
Nếu hỏi Qusay về quá trình ông lãnh đạo, dần dần biến toàn bộ thế giới Ả Rập thành một khối vững chắc, điều duy nhất khiến ông hối hận, e rằng chỉ là bệnh ung thư phổi của Bush cha.
Mặc dù bất kể ai lên nắm quyền cũng đều vì lợi ích của nước Mỹ, và với tư cách là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, việc không dùng sức mạnh quân sự để can thiệp thì quá bất thường. Tuy nhiên, khi thực sự đối mặt với vấn đề này, Qusay vẫn cảm thấy hối hận. Đối với Iraq, gia tộc Bush chính là kẻ tà ác, họ luôn muốn khuất phục Iraq!
Clinton đã hoàn thành nhiệm vụ và rời khỏi chính trường, để lại cho Bush một nền tài chính vững mạnh. Ngân khố hoạt đ��ng bình thường, hàng năm đều thặng dư ngân sách. Ngay năm đầu tiên lên nắm quyền, Bush đã mạnh tay tăng chi phí quân sự, và đến năm thứ hai đã bắt đầu lại thâm hụt ngân sách.
Rumsfeld, bộ trưởng Bộ Quốc phòng mới nhậm chức, giọng điệu của ông ta tràn đầy sự thù địch đối với Iraq.
"Bây giờ, tăng trưởng quân sự ở khu vực Trung Đông quá nhanh. Ở Iraq, có hai cụm tác chiến tàu sân bay. Chúng ta thực sự muốn hỏi một câu: đối với Iraq chỉ có vài chục kilomet đường bờ biển thì họ cần tàu sân bay để làm gì? Iraq hiện đã có tên lửa xuyên lục địa, chúng ta vẫn luôn nghi ngờ Iraq đã sở hữu vũ khí hạt nhân. Chúng ta hy vọng Iraq có thể chấp nhận điều tra. Chúng ta muốn xác nhận xem Iraq có giống như Ấn Độ và Pakistan, phát triển vũ khí hạt nhân trong bí mật hay không."
Sự bôi nhọ và uy hiếp trắng trợn hiện diện khắp nơi. Chỉ dựa vào không kích đã thắng cuộc chiến Nam Tư, đối với Mỹ, dường như đã trở lại thời đại bá chủ thế giới đó một lần nữa.
Rumsfeld ở Mỹ cũng được coi là một người có kinh nghiệm. Khi còn trẻ, ông đã gia nhập Bộ Quốc phòng Mỹ và công tác, chuyên trách các vấn đề hải quân. Đến năm 1975, ông đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp của mình, được Tổng thống Mỹ Ford lúc bấy giờ bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trẻ tuổi nhất trong lịch sử các nội các. Sau khi rời nhiệm, ông vẫn tiếp tục làm việc tại Bộ Quốc phòng, và cũng đảm nhiệm nhiều chức vụ liên quan đến quốc phòng. Và giờ đây, khi George W. Bush đắc cử Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ, Rumsfeld được Bush bổ nhiệm lại đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trở thành người đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ hai lần đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nội dung này thuộc bản quyền của truyen.free, nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức.